"....Sẵn đây tôi gửi Hồi ký Lm Nguyễn Hữu Lễ: TÔI PHẢI SỐNG, tôi lấy trên Internet (trình bày hơi phức tạp khó đọc), tôi phải chỉnh đốn lại thành như quyển sách đồng nhất (cỡ chữ Time New Roman 12) để chuyển cho bạn bè. Tôi đã đọc hết và thấy rất hay, thâm thúy, lưu loát. Tôi đã đọc (lưu giữ) nhiều bài về địa ngục trần gian dưới chế độ CS, nhưng ở quyển hồi ký sống này cho tôi ngạc nhiên không thể tưởng tượng nổi. Đây là hình ảnh hỏa ngục rõ rệt hơn là mình học trong thần học. Anh có thể phổ biến cho mọi anh em chúng ta....
peter nguyen peternguyenhoang@gmail.com
Phần Một
CUỘC ĐỜI VÀ BÓNG ĐEN
CUỘC ĐỜI VÀ BÓNG ĐEN
Vào Chuyện
Chiếc xe ca đông nghẹt hành khách dừng lại
ở một trạm trên đường phố chánh của thủ đô Hà Nội bên cạnh một công viên. Nhiều
hành khách chen nhau bước
xuống xe. Nhóm chúng tôi gồm ba người tù vừa được tha từ trại Nam Hà cũng bước
xuống. Trong nhóm có thầy Kỳ, một chủng sinh ở miền Bắc làm hướng dẫn viên, còn
anh Nguyễn Đức Khuân và tôi là dân miền Nam bị đưa ra Bắc ở tù, và cả hai mới
đặt chân xuống đất Hà Nội lần đầu nên chỉ biết rảo bước theo sau thầy Kỳ.
Khi vừa đi được một đoạn, tôi bị choáng
ngộp bởi sự thay đổi khung cảnh quá nhanh. Mới sáng nay tôi còn ở trại tù Nam
Hà vắng lặng và buồn thảm, thế mà xế trưa đã ở con đường chánh của thủ đô Hà
Nội ồn ào náo nhiệt, đầy xe cộ và người đi lại. Tuy Hà Nội không có nhiều xe
ô-tô như Sài Gòn trước kia, đa số là xe máy và xe đạp, nhưng việc xe cộ tới lui
tấp nập cũng làm tôi choáng ngợp.
Trong mười một năm tù tại miền Bắc, có bốn
lần tôi cũng có dịp đi ngang qua Hà Nội, nhưng toàn là về đêm và bị còng tay
trên các chuyến xe di chuyển tù từ trại này tới trại khác. Lần đầu là khi tôi
bị đưa ra Bắc trên tàu Sông Hương, lên bến Hải Phòng và từ đó đi xe ngang qua
Hà Nội để vào trại Nam Hà.
Lần thứ hai trong đêm Giáng Sinh 1977, khi
nhóm 20 người chúng tôi từ trại Nam Hà bị đưa lên Cổng Trời cũng đi qua Hà Nội
trong đêm. Tám tháng sau, từ trại Cổng Trời chuyển về trại Thanh Cẩm, chúng tôi
ghé qua trại Văn Hòa ở ngoại thành Hà Nội để nghỉ qua đêm. Lần cuối cùng, khi
nhóm tù chính trị miền Nam và mười người tù Trung Quốc còn sót lại ở trại Thanh
Cẩm chuyển về trại Nam Hà cũng đi ngang qua Hà Nội khi phố đã lên đèn.
Lần này tôi mới chính thức đặt chân tới Hà
Nội giữa buổi xế trưa nắng ấm trong tâm trạng của một người tự do. Tôi dùng chữ
“tự do” với một sự dè dặt, vì ít ra trong người tôi cũng có mảnh giấy ra trại
được đóng dấu và ký tên hẳn hoi. Mảnh giấy, dấu ấn tự do của 13 năm tù đang
được tôi cẩn thận nhét vào cái túi may bên trong áo phía trước ngực và cài lại
bằng 2 lần kim băng.
Tôi không thể nào để tờ giấy màu nâu bằng
chất liệu giấy rất kém này mất đi được. Đó là tờ giấy duy nhất hợp pháp mà tôi
có được sau một thời gian rất dài ngoài ra tôi chẳng có một thứ giấy tờ gì
trong người. Tờ giấy ra trại này để chứng minh cho mọi người biết tôi là ai, và
dĩ nhiên là để tránh rắc rối trong lúc tôi vừa mới chân ướt chân ráo bước ra
khỏi nhà tù này và đang có ý định là sẽ lưu lại thăm viếng miền Bắc một thời
gian chừng hai tuần lễ trước khi xuôi tàu về Nam.
Chiếc Nôi Dân Tộc
Tôi lên tiếng gọi và nói thầy Kỳ cho ngồi
nghỉ một chút vì thấy trong người hơi mệt. Chúng tôi rẽ vào bên chiếc ghế công
viên ngay đó ngồi vừa nhìn cảnh nhộn nhịp của giao thông trên đường phố thủ đô.
Lúc ngồi tựa lưng vào thành ghế đá công viên, tôi có dịp để ý quan sát người
dân Hà Nội, người ngồi xe cũng như khách bộ hành trên đường phố. Điều tôi ghi
nhận đầu tiên là họ ăn mặc rất giản dị, không màu mè chải chuốt. Đa số mặc quần
đen áo trắng, đàn ông cũng như đàn bà. Phần đông cúi đầu lầm lũi bước đi như
những người mang tâm trạng chán chường, mệt mỏi.
Họ thường đi lẻ loi một mình, có khi sánh
bước từng nhóm vài ba người, nhưng rồi cũng mạnh ai người ấy đi, ít khi thấy họ
cười nói đùa cợt như hình ảnh quen thuộc của hè phố Sài Gòn mà tôi đã xa lìa
hàng chục năm qua. Tôi đoán hầu hết những người đang đi xe gắn máy hoặc xe đạp
là giới công nhân qua cách ăn mặc giản dị của họ. Đàn ông phần nhiều đội mũ cối
và phụ nữ đầu đội nón lá. Một chi tiết lý thú mà tôi thấy lúc bấy giờ là gần như
tất cả các cô gái Hà Nội đều thon thả, mảnh mai và hơi nhỏ người.
Tự nhiên tôi liên tưởng tới chiếc áo dài
Việt Nam và nghĩ là trời sinh ra người con gái Việt Nam, nhất là gái Hà Nội là
để mặc áo dài! Một lúc sau bắt đầu quen mắt, tôi cảm thấy dễ chịu, đứng dậy xốc
ba-lô lên vai và theo thầy Kỳ dẫn lối tới Nhà Chung Hà Nội.[1] Tôi đã nghe nói
nhiều về Hà Nội với 36 Phố Phường. Những bài hát truyền cảm, những câu thơ trữ
tình tả cảnh “nên thơ” của Hà Nội. Nhưng hôm nay, lần đầu tiên tôi đang sống
với Hà Nội bằng chính đôi mắt và con người tự do của tôi.
Hà Nội đẹp lắm! Một nét đẹp cổ kính và
chất phác nhưng thâm trầm. Ngay từ giây phút đầu thấy Hà Nội, tôi như bị “tiếng
sét ái tình” làm mê mẩn hồn. Tôi say mê Hà Nội như chàng trai mới lớn lần đầu
tiên nhìn thấy bóng dáng kiều diễm của người con gái trong mộng và rồi “yêu”
nàng! Hà Nội không lộng lẫy kiêu sa, nhưng mang vẻ trinh nguyên của chiếc nôi
dân tộc. Tôi yêu Hà Nội kể từ giây phút đầu tiên đó.
Thầy Kỳ đi đầu, mặc bộ quần áo màu xanh
trại phát với túi xách trên vai, Khuân mang ba-lô đội nón vải bước theo sau.
Nhìn hai người bạn đang hăng hái bước đi trước mặt, tự nhiên tôi buồn cười khi
nghĩ tới hình ảnh của nhóm bộ ba tướng sĩ tượng này. Hai anh bạn ăn mặc kỳ dị
quá khiến tôi nghĩ có lẽ người khác nhìn tôi cũng nói như vậy.
Chúng tôi thật chẳng giống ai, nhất là
thầy Kỳ! Ai nào lại mặc bộ quần áo tù đi nghênh ngang giữa thủ đô văn hiến như
thế nhỉ? Dường như ai nhìn vào cũng biết đây là ba anh tù vừa mới ra trại. Biết
đâu có người còn nghĩ đây là ba anh tù vượt ngục khi thấy thầy Kỳ mặc bộ quần
áo tù với chiếc áo trấn thủ che ngoài để lấp con dấu “Cải Tạo” đóng sau lưng
không chừng! Tự nhiên tôi đâm ra băn khoăn xen lẫn một chút khó chịu.
Cái ông thầy Kỳ này thật là “kỳ”! Ai lại
đi ăn mặc như thế bao giờ! Không lẽ chẳng còn bộ đồ nào khác hơn hay sao? Ăn
mặc như thế nhỡ có ai nghi ngờ thì lại rắc rối to. Mặc dù hơi khó chịu nhưng
khi thấy thầy Kỳ bỗng dưng hớn hở và cho biết là sắp tới nơi, hồn tôi như hòa
vào niềm vui và quên đi nỗi băn khoăn về thầy.
Thầy Kỳ lúc đó đã ngoài 40, có lẽ cũng xấp
xỉ tuổi tôi. Người nhỏ thó và nước da ngăm đen. Mấy chiếc răng bi gãy trông
thầy càng bệ rạc hơn! Tuy nhiên, tính tình vui vẻ và khiêm tốn làm tăng thêm
nét dễ thương nơi thầy. Vì lý tưởng đi tu mà thầy bị bắt vào tù ra khám không
biết bao nhiêu lần.
Thầy Kỳ chung lớp với một số Linh mục ở
miền Bắc. Số thầy lận đận tù mãi, bằng không cũng trở thành Linh mục từ lâu.
Thầy Kỳ quen biết hầu hết các tu sĩ miền Bắc, từ Hồng Y Giáo chủ trở xuống.
Trong Nhà Chung Hà Nội này có hai bạn học cùng lớp với thầy Kỳ làm phòng bộ cho
Đức Hồng Y. Trong khi rảo bước theo thầy, tôi có cảm tưởng như đang bước theo
sau một “Thiên thần” hộ mệnh.
Nhà Chung Hà Nội
Vừa tới ngõ rẽ vào Nhà Chung, tôi cảm thấy
hơi bồn chồn khi sắp sửa được gặp vị Hồng Y Giáo chủ mà tôi chưa từng bao giờ
gặp. Bất ngờ có một người đàn ông nhỏ thó quãng ngoài 50 xuất hiện. Ông từ một
ngõ sát cạnh hàng rào Nhà Chung bước ra chặn chúng tôi lại và hỏi:
- Cho tôi hỏi, có phải các anh mới đi tàu
hỏa xuống à?
Tôi rất nhạy trước cảnh này và biết ngay
người đàn ông đó là ai. Thầy Kỳ chưa kịp trả lời, tôi bình thản lên tiếng:
- Chúng tôi không đi tàu hỏa, nhưng tại
sao bác hỏi thế?
- Tôi đi đón người nhà từ miền Nam ra, và
trông các anh có vẻ người miền Nam nên tôi hỏi thăm.
Thấy người công-an chìm này có vẻ trâng
tráo, tôi vặn hỏi ngay:
- Có phải bác nghi chúng tôi là tù vượt
ngục không?
Người lạ mặt tỏ ra bối rối sau câu hỏi đó.
Mặt ông ta khác đi và yên lặng. Thì ra tôi đoán đúng, người ngoài thấy chúng
tôi biết ngay là tù. Hơn nữa, thấy cách ăn mặc của thầy Kỳ họ có quyền nghi
thêm hai chữ “vượt ngục”. Tôi nói tiếp:
- Bác lầm rồi, chúng tôi là tù nhưng không
phải vượt ngục mà mới được tha về từ trại Nam Hà sáng hôm nay.
Người công-an chìm này không chịu thua:
- Thế các anh định về đâu?
- Dĩ nhiên là tôi về Nam , nhưng chưa về ngay hôm nay.
- Các anh định ở đâu trong lúc này?
- Ở đây, trong Nhà Chung này!
Vừa nói tôi vừa chỉ vào Tòa Giám Mục Hà
Nội. Xong câu đó, chúng tôi bỏ đi vào. Người đàn ông đứng nhìn theo.
Tòa Giám mục Hà Nội, hay thường được gọi là Nhà Chung Hà Nội là một
khu vực khá rộng với nhiều dãy nhà ngang dọc, nhưng tòa nhà chánh là nhà hai tầng khá dài
nằm thẳng góc với đường cái. Cách tòa nhà chánh này một đỗi là tháp của Nhà thờ
Chính tòa có cây Thánh Giá vươn cao.
Từ cổng đi vào là sân khá rộng và dài sâu mãi vào bên trong. Khu vực này với
cây to bóng mát và các tòa nhà lâu năm trông thật cổ kính. Lúc vừa bước vào
khuôn viên Nhà Chung Hà Nội, tôi tưởng như mình đang đi vào một khu bảo tàng cổ
được gìn giữ cẩn thận và trang nghiêm.
Thầy Kỳ dẫn chúng tôi đi sâu mãi vào gần
cuối mới có bậc thềm bước vào khu nhà. Lúc đó khoảng hai giờ chiều, có lẽ là
giờ nghỉ nên cả khu nhà yên tịnh và vắng vẻ, chẳng thấy bóng dáng ai. Thầy Kỳ đã
quen biết nơi này nên đi vào trong như người nhà. Anh Khuân và tôi đặt ba lô
xuống bậc thềm xi măng ngồi nghỉ mệt.
Một lúc sau thầy Kỳ trở ra với một người
đàn ông cao và trắng trẻo, tóc húi kiểu đầu đinh tức là có mái bằng trên đỉnh
đầu. Người này mặc áo sơ mi trắng ngắn tay, quần tây đen, áo bỏ ngoài quần và
chân mang xăng-đan. Toàn diện con người anh toát ra sự sạch sẽ và gọn gàng của
một con người làm việc văn phòng. Hình ảnh này tương phản với thầy Kỳ nhỏ thó,
đen đủi và bệ rạc trong bộ đồ tù đang cười nói bước đi bên cạnh. Anh Khuân và
tôi đứng lên khi hai người ra tới nơi. Thầy Kỳ giới thiệu:
- Thưa cha, đây là thầy Trác, bạn cùng lớp
của con và là người giúp phòng bộ của Đức Hồng y.
Tôi đưa tay ra bắt tay thầy Trác, trong
lúc thầy nói:
- Con được thầy Kỳ cho biết có cha và anh
ghé Nhà Chung. Con xin chào. Mời cha và anh vào.
Thầy Trác đưa cả 3 vào phòng ăn, vừa đi
vừa nói:
- Giờ này Đức Hồng y chưa xuống văn phòng.
Cha ngồi uống nước và tạm nghỉ, chốc con lên trình với ngài.
Trong lúc chúng tôi uống nước, thầy Trác
bước ra ngoài. Phòng ăn này khá lớn có kê một bàn dài và hai bàn tròn. Trong
góc và cạnh vách có bộ xa-lông và mấy chiếc bàn nhỏ để sách báo. Chỗ nào cũng
sạch sẽ tươm tất. Một lúc sau thầy Trác trở lại, tôi vẫn ngồi yên đọc báo. Tôi
ngạc nhiên khi thầy bước tới và chào tôi lần nữa:
- Chào cha, có phải cha Lễ không ạ?
Tôi ngạc nhiên vì lúc nãy đã giới thiệu
rồi, sao thầy còn hỏi nữa?! Tôi ú ớ đáp lại:
- Vâng... vâng...
Chưa nói hết câu thì thầy Kỳ cười lên
tiếng:
- Thưa cha, đây là thầy Trạc, em sinh đôi
của thầy Trác lúc nãy!
- À, ra thế! Tôi chợt phá lên cười mà
không dằn được, mặc dù biết cười như thế là không phải. Để khỏa lấp chỗ hớ của
mình, tôi liền chống chế bằng một câu thân thiện:
- Trời ơi! Hai anh em giống nhau quá, tôi
nhận không ra!
Thầy Trạc vui vẻ đáp:
- Không phải một mình cha lầm đâu, có
nhiều người lầm hai anh em con. Chúng con giống nhau quá hả cha?
Chúng tôi được trận cười thoải mái sau câu
nói đó. Hai anh em sanh đôi này đã giống nhau như hai giọt nước mà lại ăn mặc
như nhau nữa thì có trời mới biết ai là Trác và ai là Trạc! Lúc đó tự nhiên tôi
liên tưởng tới hai nhân vật sinh đôi Dupond và Dupont trong bộ truyện bằng
tranh “Tintin et Milou” của Paul Hergé, nhưng tôi không dám nói ra. Sau khi
chúng tôi ngồi nói chuyện vui vẻ, chợt thầy hỏi:
- Trước khi vào Nhà Chung, cha và các anh
có gặp ai hỏi thăm gì không?
Tôi nói có và kể lại câu chuyện gặp người
đàn ông ngoài cổng. Thầy chia sẻ:
- Thế đó cha ơi! Ngoài này nó vậy đấy! Con
kiến cũng chui không lọt đừng nói chi con người. Mà này cha và anh có giấy tờ đưa
con đi trình. Đồn công an ngay cổng vào đó cha!
Chúng tôi móc túi lấy giấy tờ. Khi thấy
tôi lần túi trong túi ngoài và qua hai lần kim băng móc mảnh giấy ra trại, thầy
Trạc nhìn tôi mỉm cười làm tôi xấu hổ. Lúc ấy tôi có cảm tưởng mình giống như
một bà nhà quê, giấu mấy đồng tiền lẻ sâu vào ruột tượng moi mãi không ra. Tôi
cười và nói cho đỡ ngượng:
- Cẩn tắc vô ưu thầy ạ!
- Phải thế chứ cha! Bọn móc túi Hà Nội này
nó ranh lắm! Nhất là lúc đi tàu hay đi xe, cha và các anh phải cẩn thận đấy.
Bọn chúng nhanh như sóc ấy!
Câu nói của thầy Trạc làm tôi đỡ ngượng.
Thầy cầm lên đọc khá kỹ các mảnh giấy trong tay. Tôi biết là ngoài lý do để đi
trình giấy, những người có trách nhiệm trong Nhà Chung cũng phải biết chắc ai
bước vào nhà này. Mặc dù có sự giới thiệu coi như bảo đảm của thầy Kỳ, nhưng
người ngợm của tôi lúc bấy giờ rất dễ cho người lạ nghi là Linh mục “dỏm!”
Sau đó thầy bước ra và dặn tôi ngồi nghỉ
để thầy đi dọn phòng cho chúng tôi. Thầy nói thêm là giờ này Đức Hồng y còn
trong nhà nguyện, tới ba giờ sẽ vào văn phòng làm việc và tiếp khách.
Một lúc sau thầy trở lại bước vào nhà ăn,
nhưng tôi không biết là Trác hay Trạc! Thầy mời tôi lên phòng, trong khi Kỳ và
Khuân ngồi chờ thầy trở lại để đưa qua khu vực nhà khách dành cho các thầy. Tôi
nghĩ giá mà ba anh em chúng tôi được ở chung một nhà thì vui hơn, nhưng nhập
gia phải tùy tục.
Lúc đi cạnh nhau tôi vẫn chưa biết người
nầy là Trác hay Trạc! Tôi mỉm cười với ý nghĩ, giá mà một ông bị cận thị mang
kính thì dễ phân biệt biết mấy! Tôi được đưa vào một phòng khách trên lầu rất
sạch sẽ, rộng rãi và đủ tiện nghi. Giường trải chiếu hoa và có quạt trần. Phòng
mở cửa nhìn xuống sân từ đường cái đi vào và đối diện bên kia là nhà Văn hóa.
Tôi đặt chiếc ba lô hành trang duy nhất
của tôi xuống ghế và bước vào nhà tắm để rửa mặt. Sau khi lau người bằng chiếc
khăn mặt trắng và thơm tho, tôi bước ra và tới ngả lưng nằm dài trên giường có
chiếc gối trắng tinh, dang rộng tay chân trong tư thế thoải mái lần đầu sau 13
năm cuộc đời gió bụi. Vừa nằm xuống tôi buột miệng nói thành lời: “Ôi! Đời đáng
sống làm sao!”
Cái cảm giác đang tự do và làm chủ hoàn
toàn một căn phòng, cho dù chỉ là một phòng khách của Nhà Chung Hà Nội và chỉ ở
tạm một vài ngày đã làm tôi lâng lâng hạnh phúc và nhận chân ra sự thay đổi đột
ngột trong cuộc đời. Tôi nằm yên nhắm mắt và cố tận hưởng giây phút hiếm hoi
này, chẳng suy nghĩ gì thêm. Một lúc sau có tiếng gõ cửa và thầy phòng bộ bước
vào. Tôi vẫn không biết là Trác hay Trạc, chỉ lên tiếng “chào thầy!” Thầy nói đã
trình Đức Hồng y. Ngài mừng lắm và hẹn ba giờ rưỡi thầy đưa chúng tôi lên gặp
Đức Hồng y.
Hồng Y Giáo Chủ
Từ trước tới giờ tôi chỉ nghe tên và xem
thấy hình, nhưng chưa bao giờ có dịp gặp Đức Hồng y Trịnh Văn Căn. Do đó, tôi
hơi bồn chồn khi cùng với hai người anh em kia bước theo thầy phòng bộ trong
hành lang dẫn tới phòng của vị chức sắc cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo
Việt Nam. Phòng này nằm ở lầu hai trong tòa nhà chánh của Nhà Chung Hà Nội. Tới
nơi, thầy phòng bộ bước lui để ba anh em tôi vào.
Khi nghe tiếng gõ cửa, vị Giáo Chủ bước ra
tận nơi đón chúng tôi. Hồng y Trịnh Văn Căn, một người khá cao lớn, tuổi ngoài
60, nước da hồng hào, tóc bạc trắng, trên môi nở nụ cười tươi và dáng vẻ rất
phúc hậu. Ngài mặc áo dòng đen có viền đỏ như các Giám mục vẫn mặc, cổ “côn”
trắng chỉnh tề và chân mang giày da đen. Tôi đi đầu, theo sau là thầy Kỳ và anh
Khuân.
Vừa thấy ngài, tôi lên tiếng: “Thưa Đức
Hồng y, con là cha Lễ, thuộc giáo phận Vĩnh Long, cùng với thầy Kỳ và anh
Khuân, chúng con xin chào Đức Hồng y.” Ngài tươi cười đưa tay ra, tôi bắt tay
vừa định quỳ gối hôn nhẫn thì ngài đỡ tôi dậy, kéo vào lòng và quàng tay trái
ôm tôi khá lâu vừa nói: “Cha Lễ! Nghe tin cha về tôi mừng lắm. Tạ ơn Chúa! Tạ
ơn Chúa!”
Thái độ của ngài làm tôi vô cùng cảm động.
Sau đó ngài bắt tay Kỳ và Khuân, và để cho hai người quỳ hôn nhẫn. Tôi giới
thiệu Khuân là một giáo dân, còn thầy Kỳ thì ngài đã biết. Ngài tiếp chúng tôi
rất niềm nở, cùng chúng tôi ngồi ở bộ ghế xa-lông giữa phòng.
Phòng làm việc của Đức Hồng y rất rộng,
đơn sơ và ngăn nắp. Khi bắt đầu câu chuyện, tôi cám ơn ngài đã gửi quà cho các
Linh mục trong tù và khi các cha về hết thì gửi cho tôi. Ngài nói có nhờ cha
Mai lo việc đó vì ngài nghĩ là các cha trong miền Nam xa xôi quá. Ở đây ngài
làm được gì để an ủi các Linh mục trong lúc tù đày thì ngài cố gắng làm. Ngài
cũng nhắc tới Đức cha Thuận đang bị giam lỏng ở Giang Xá và ngài vẫn nhờ cha
Mai lo gửi quà, nhưng lần vừa rồi trả lại khiến ngài lo lắng không biết Đức cha
Thuận bây giờ ra sao.
Giọng nói của ngài ấm, đơn sơ và truyền
cảm. Ngài hỏi tôi về những cha còn lại trong tù, cách thức thăm nuôi làm sao,
đời sống tinh thần các Linh mục và giáo dân trong tù thế nào. Ngài hỏi chuyện
cả ba người nhưng nhiều nhất là tôi. Tôi nói số Linh mục miền Nam ra Bắc từ hơn
10 năm qua thì tôi là người ra về cuối cùng.
Nhưng Linh mục miền Bắc mới bị vào tù sau
này thì còn lại ba người là cha Thi, cha Vĩnh thuộc Giáo phận Bùi Chu và cha
Hiểu thuộc Giáo phận Bắc Ninh. Có trường hợp cha Lý và cha Nghiêm thuộc Tổng
Giáo phận Huế mới bị bắt hai năm cũng còn ở trại Nam Hà. Như vậy còn lại 5 Linh
mục trong tù. Khi tôi nói các chi tiết này, Đức Hồng y đứng lên bước lại bàn
lấy quyển sổ và bảo tôi nhắc lại để ngài ghi.
Sau đó ngài hỏi chừng nào chúng tôi về Nam
và chương trình những ngày tới ra sao. Tôi cho biết là anh Khuân sẽ về trước còn
tôi sẽ lưu lại miền Bắc nửa tháng để có dịp đi thăm viếng và ghi nhận tất cả
những gì có thể ghi được, nhất là về tình trạng Giáo hội Công Giáo trong các
giáo phận miền Bắc sau mấy chục năm dưới chế độ cộng-sản, để sau này nếu có dịp
tôi sẽ viết lại những gì tôi đã thấy và tìm hiểu.
Đức Hồng y rất tán thành ý định của tôi và
ngài nói: “Cha cứ đi, nếu cần giới thiệu tới chỗ nào tôi sẽ giới thiệu. Hãy coi
Nhà Chung này là nhà của cha. Bất cứ lúc nào cha trở lại cũng được, và nếu cần
gì cứ bảo với hai thầy phòng bộ.” Ngài quay sang hỏi anh Khuân về gia đình, vợ
con và việc làm ăn sinh sống trong thời gian chồng đi tù.
Đức Hồng y tiếp chúng tôi quãng nửa tiếng
đồng hồ. Sau đó, chúng tôi đứng lên xin cáo lui để ngài làm việc. Trước lúc
chúng tôi ra khỏi phòng, ngài dặn chúng tôi sang thăm và chào Đức cha phó là
Giám mục Nguyễn Văn Sang. Tôi trả lời là đã nhờ thầy phòng bộ thông báo và
chúng tôi sẽ tới chào ngay sau khi thăm Đức Hồng y.
Tôi bước ra khỏi phòng Đức Hồng y Trịnh
Văn Căn với sự cảm xúc và lòng kính mến sâu xa. Tôi rất mừng và hãnh diện về
Giáo hội Công Giáo Việt Nam có được người lãnh đạo nhân từ, đầy lòng bác ái và
quan tâm tới từng hoàn cảnh của mỗi người như thế.
Tuổi trẻ ngô nghê
Những năm đó tầm mắt tôi có dịp mở rộng
hơn nhờ những lần tôi được chị Hai cho theo đi chợ trên tỉnh Vĩnh Long, cách
nhà 33 cây số. Những lần được đi tỉnh này đối với tôi rất đáng ghi nhớ vì đó là
dịp mở mắt để được biết cuộc sống ở tỉnh như thế nào. Thường là mỗi năm một lần
chị tôi đi chợ tỉnh trong dịp mua sắm Tết, chị dẫn tôi theo chỉ với nhiệm vụ
đứng tại chỗ coi chừng cái cần xé đựng các thứ đã mua để chị còn đi mua tiếp
theo.
Sau khi mua đủ các thứ cần thiết chị gọi
xe lôi tới chở ra bến xe đò gần đó để về Cầu Đá. Khi lên Vĩnh Long, cảnh sinh
hoạt, nhà cửa xe cộ và sự tấp nập của người dân ở tỉnh làm tôi choáng ngộp và
thích thú. Cái gì đối với tôi cũng mới, cái gì cũng lạ, cái gì cũng sang trọng
cũng đẹp đẽ và ngay lúc đó tôi có cảm nghĩ rằng cuộc sống ở tỉnh là một đặc
quyền dành cho một lớp người nào đó, còn gia đình tôi và cá nhân tôi không bao
giờ có thể có cuộc sống như thế được. Có ra tỉnh mới lòi ra sự ngô nghê của
tuổi trẻ, nhất là đứa trẻ từ quê mới ra tỉnh lần đầu như tôi thì thật là khờ
khạo một cách đáng thương.
Tôi còn nhớ trong lần đầu lên tỉnh, tôi đi
với Long là em họ tôi lên thăm cha của Long đi lính ở đó. Trong trại lính có
một dãy cầu tiêu máy nằm gần ngoài cổng, và Long dặn tôi sau khi đi cầu xong
phải giật nước và chỉ cho tôi cách thức giật nước như thế nào. Đó là lần đầu
tiên tôi sử dụng cầu tiêu máy, vì ở nhà quê chỉ có cầu tiêu trên hồ cá tra hoặc
là bên bờ sông nước chảy.
Khi tôi nắm quả nắm bằng sứ lòng thòng
xuống ở đầu sợi dây xích sắt nối với cái “máy” bên trên, giật mạnh một phát như
lời Long dặn, tự nhiên nước ở đâu tống ra cái ống sắt quá mạnh và chảy ù ù một lúc làm tôi giật mình
nghĩ thầm: “Chết cha rồi, mình làm hư máy của người ta rồi, làm sao đây!” Tôi
lính quýnh không biết làm sao, chỉ cầu trời cho nước ngừng chảy vì với lượng
nước tống ra mạnh như thác đổ vậy mà chảy... cả ngày chắc là tôi phải bị rắc
rối to.
Tôi đứng đó mặt mày tái mét, tim đập mạnh
nhưng chẳng biết cầu cứu với ai. Nhưng may làm sao, từ miệng ống nước phát ra
một tiếng “ù” rất lớn rồi nước ngưng chảy. Hú vía! Tôi mừng thoát nạn. Lúc đó
tôi đâu có biết là cầu tiêu máy nó là như vậy, và hỏi lại cũng có nhiều người
cũng bị hú vía khi sử dụng cầu tiêu máy lần đầu như tôi.
Trong lần khác tôi theo chị đi Vĩnh Long
vào một tiệm buôn là tiệm Xuân Phát Lợi, tôi thấy trên trần nhà ngay trên đầu ông
chủ tiệm người tàu mập mạp và trắng trẻo có cái gì quay tít rất nhanh và cứ quay hoài. Tôi đứng
nhìn say sưa mà cũng chẳng hiểu tại sao nó quay và quay như thế để làm gì. Tôi
cứ thắc mắc nhưng chẳng hỏi ai, rồi không biết lúc nào về sau này tôi mới biết
đó là quạt máy.
Từ những kinh nghiệm ngô nghê đó sau này
lớn lên tôi thương sự dại khờ của trẻ con, nhiều khi sự khờ khạo đó rất buồn
cười, thí dụ như trên con đường tôi đi học từ Cầu Đá xuống Mai Phốp có 2 cây
trụ bằng xi măng cao quảng 70 phân giống như cây kem khổng lồ gọi là “thẻ số
ngàn”, bọn học trò chúng tôi thường trèo lên ngồi trên trốc như ngồi trên chiếc
ghế.
Trong một thời gian rất lâu tôi thắc mắc
mãi không biết “thẻ số ngàn” đứng đó để làm gì? Có lần tôi hỏi ai đó, họ nói
cái thẻ đó là một ngàn thước làm tôi càng thắc mắc hơn, nghĩ thầm: “Làm sao
chứa được một ngàn cây thước bên trong bụng cái thẻ chỉ to hơn cái mộ bia một
chút này?” Không hiểu cho tới một lúc nào đó tôi mới biết là những “thẻ số
ngàn” đó, là cột mốc cái này cách cái khác là một ngàn thước!
Lúc nhỏ tôi cũng thường nghe người lớn nói
tới việc đi “gõ dây thép gió” mỗi khi có tin tức gì khẩn cấp muốn báo tin cho
người khác. Lúc bấy giờ tôi hiểu một cách đơn sơ rằng, chỉ cần gõ vào những cột
dây thép gió (cột điện) dọc theo lộ đá là người khác sẽ nghe và biết tin. Có
mấy lần tôi dùng hòn đá to thử gõ vào các trụ điện bằng sắt nhưng chỉ nghe phát
ra tiếng tiếng “bon... bon.” ngoài ra chẳng thấy có gì khác lạ, điều đó càng
làm cho tôi thắc mắc.
Sau này lớn lên tôi mới biết “gõ dây thép
gió” tức là đánh điện tín! Thậm chí lúc đó tôi ngô nghê cho đến nỗi thấy cha
Trình mặc áo chùng từ cổ xuống gót chân, tôi tưởng là ngài không hề có chuyện
đi tiêu đi tiểu như người thường.
Cho tới một hôm, lúc đó tôi đã 10 tuổi,
tôi đứng gần cây trứng cá kế bên nhà bếp cha sở, tôi thấy cha Trình mở cửa bước
vào cầu tiêu trên hồ cá tra và tôi thấy... nước chảy nghe ton tỏn xuống mặt hồ.
Tôi bàng hoàng vỡ lẽ ra là cha Trình cũng đi tiểu. Tôi cảm thấy không vui khi
biết điều đó vì từ trước tôi vẫn nghĩ cha Trình như một bậc siêu nhân thì làm
gì có chuyện ...đó như người phàm!
Biến cố vĩ đại
Cũng trong năm 1957 này, trong đời tôi có một
biến cố thật vĩ đại mà tôi nghĩ cả đời tôi chỉ có một không hai, đó là việc tôi
đi Sài Gòn!
Với một đưa trẻ sanh ra trong gia đình
nông dân và lớn lên ở miền quê trong thời lửa đạn như tôi mà được đi Sài Gòn
lúc 14 tuổi là một việc nằm mơ cũng không thấy! Một cơ hội may mắn ngoài sự
mong ước nó đến quá bất ngờ làm tôi vui mừng cuống cuồng và háo hức chờ đợi
không thể nào diễn tả được.
Thật vậy, Sài Gòn đối với tôi lúc bấy giờ
là một hình ảnh tôi không có thể nào tưởng tượng ra được và chuyến đi Sài Gòn
đầu tiên này là chuyến đi làm tôi háo hức đến tột cùng. Mỗi lần nhớ lại tôi đều
cám ơn hoàn cảnh và cám ơn người đã cho tôi cơ hội độc nhất vô nhị này.
Sự việc bắt đầu từ khi cha tôi xin thầy
Bùi Sinh Quý làm Bõ đỡ đầu khi tôi chịu phép Thêm Sức. Từ đó thầy Quý thương
tôi như một người con. Những ngày nghĩ học tôi hay tới nhà thầy chơi, giúp thầy
trong các việc lặt vặt và thầy Quý thường cho tôi quà, phần nhiều là sách vở và
tranh ảnh.
Một hôm tôi tới chơi khi thầy chuẩn bị về
Sài Gòn nghỉ một thời gian trong dịp lễ
Quốc Khánh vào ngày 26 tháng 10 năm 1957, năm đó là lễ Quốc Khánh đầu tiên nền
đệ nhất Cộng Hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trong lúc ngồi chơi tôi nói với
thầy là không biết đến bao giờ tôi mới có dịp đi Sài Gòn một lần cho biết. Tôi
chỉ nói lên sự ước mơ thôi nhưng không dám xin thầy cho đi, nhưng thầy Quý tự
nhiên nói lên:
- Vậy Lễ về xin phép cha má, nếu cha má cho
thì tối nay xuống đây thầy cho đi Sài Gòn, sáng sớm mai sẽ đi.”
Tôi không dám tin vào tai tôi, nên đã bước
lại gần hỏi lại cho chắc.
- Thầy tính cho con đi thiệt hả thầy?
Thầy Quý đang thu xếp sách vở quay lại
nhìn tôi mỉm cười:
- Ừ! thì về xin phép cha má trước đã. Nếu
cha má đồng ý thì thầy cho đi!
Tôi đâu có bao giờ nghĩ là trong đời mình
có được giây phút quá bất ngờ như vậy. Lúc đó quảng gần trưa. Tôi vội ra ngoài
nhảy thót lên xe đạp chạy như bay về Cầu Đá. Con đường này tôi đi quen rồi, chỉ
có 2 cây số thôi mà sao đạp hoài không tới! Trong lúc gò lưng đạp xe trên con
đường đá sỏi gồ ghề trong lòng tôi lo lắng hằng trăm chuyện.
Tôi lo không biết cha má tôi có cho phép
đi hay không, nếu cho thì có đủ thì giờ chuẩn bị cho chuyến đi lịch sử này
không, áo quần gì để mặc đi Sài Gòn, còn giày nữa, trong đời tôi chưa có một
đôi giày đôi dép nào, chỉ có guốc bằng gỗ thôi. Mà đi Sài Gòn phải là giày,
không thể mang guốc được, rồi tóc chưa cắt… rồi... và rồi! Thật không ngờ trong
đoạn đường đạp xe đó tôi có quá nhiều chuyện phải lo trong đầu cùng một lúc. Về
tới nha, tôi hỏi má trước, vì má bao giờ cũng dễ hơn cha. Má nghe cũng quá ngạc
nhiên bảo tôi: “Con phải hỏi cha con, nếu cha cho thì con đi!”
Khổ nỗi, cha tôi đi ruộng chưa về, mà từ
nhà vô tới ruộng phải băng cánh đồng gần 2 cây số. Má vừa nói xong tôi vụt như
bay ra ruộng phía sau nhà và cứ theo bờ đê chạy thẳng vô ruộng, nơi cha và anh
tôi đang làm. Vừa chạy vừa cầu nguyện xin Chúa giúp cho cha tôi cũng đồng ý.
Cha và anh tôi tấy tôi chạy cách bất thường
như thế này chắc hẳn là ngạc nhiên không hiểu có chuyện gì. Khi tới nơi và sau
khi nghe tôi nói, cha tôi ngừng tay, lên bờ ruộng ngồi vấn điếu thuốc rê trong
cử chỉ chậm rãi và đĩnh đạc như thường ngày, đâu có biết là tôi vô cùng sốt
ruột chờ đợi câu trả lời quyết định.
Trong gia đình tôi, những sinh hoạt thường
nhật thì má lo liệu, nhưng các việc quan trọng bao giờ cha tôi cũng là người
quyết định. Dù vậy ý kiến của chị Hai rất có ảnh hưởng. Có mấy lần má đồng ý
rồi nhưng chị Hai bảo không được là không được. Và tôi đã phải ngậm đắng nuốt
cay với chị Hai không biết bao nhiêu lần. Sau khi bật quẹt đốt thuốc cha tôi
phà khói lên trời và quay sang hỏi:
- Con có hỏi má chưa?
Nghe cha tôi hỏi tôi đã mừng trong lòng vì
kinh nghiệm cho tôi biết là sau câu hỏi theo nguyên tắc đó, tiếp theo sẽ là cái
dấu “Thuận” đóng bằng chữ đỏ.
- Con hỏi má rồi, má cho nhưng bảo con hỏi
nếu cha cho thì đi!
Cha tôi nghe thế ngồi trầm ngâm rồi hỏi:
- Thầy Quý nói đi bao lâu?
- Con không nghe thầy nói nhưng chắc là một tuần vì trường nghỉ học 10 ngày.
Cha tôi gật đầu:
- Ừ! Nếu má cho thì đi!
Chúa rất thánh ơi! Đời tôi sao mà hạnh phúc! Tôi có cảm tưởng như
vừa được bay lên 9 tầng mây và đang nhìn xuống con người trần gian khổ ải bên
dưới. Một cảm giác hạnh phúc quá lớn vồ lấy tôi một cách bất ngờ làm tôi choáng
váng. Mới có mấy tiếng đồng hồ mà tôi nhận mấy tin động trời liền nhau, từ lời
nói của thầy Quý, tới câu nói của má, bây giờ tới câu” Ừ! nếu má cho thì đi!”
của cha tôi.
Câu nói ngắn gọn 5 chữ này có sức mạnh của
một phép mầu biến thằng bé ngô nghê như tôi trong phút chốc trở thành con người
hạnh phúc nhất trần gian. Tôi vội thưa “Con cám ơn cha” và định bốc chạy về nhà
nhưng anh Năm Nhơn của tôi lúc bấy giờ
19 tuổi, đang làm ruộng với cha tôi, vác cuốc mò tới hỏi:
- Mầy đi đâu đó hả Lễ?
- Em vô hỏi cha cho em đi Sài Gòn!
Anh Năm ngạc nhiên kêu lên:
- Trời! Thiệt à? mầy đi Sài Gòn
thiệt à, mà mày đi với ai?
- Thầy Quý cho em đi.
- Mầy đi bao lâu?
- Em không biết nhưng chắc một tuần.
Anh Năm nhe răng cười trêu tôi:
- Chuyến này thì “Tư Ếch” đi Sài Gòn!”
Tôi không trả lời nhưng bắt đầu chạy về
nhà vừa nghe anh Năm nói với theo: “Nhớ coi chừng xe cộ nghe mậy!”
Tôi chạy, đúng hơn là tôi bay về nhà. Nhưng
tôi không trở lại con đường cũ mà lại “bay” vòng xuống bờ kinh, hai bên là nhà
dân chúng có con đường đất chạy cặp theo sông, đường này cũng về nhà tôi được.
Tôi đã có ý định trong đầu khi đi lối đi này. Như vậy là giấc mộng đã thành sự
thật. Tôi được đi Sài Gòn. Một sự thực quá sức tưởng tượng của tôi.
Vừa cắm đầu cắm cổ chạy, tôi thầm nghĩ
không biết trên cõi đời này có ai sung sướng như tôi hay không? Tôi nhớ tới còn
quá nhiều việc phải làm, phải chạy về nhà càng nhanh càng tốt. Nhớ lại lúc nãy
anh Năm trêu tôi “Tư Ếch đi Sài Gòn” là trong một vở tuồng trong dĩa hát máy kể
chuyện ông Tư Ếch quê mùa đi Sài Gòn lần đầu. Chúng tôi nghe mà cười muốn bể
bụng vì sư quê mùa của ông Tư Ếch. Tôi nghĩ là chắc mình không đến nỗi như ông
Tư Ếch, dù gì thì tôi cũng đã được đi tỉnh Vĩnh Long mấy lần rồi. Còn ông Tư
Ếch thì từ nhỏ tới lớn toàn ở nhà quê chưa bao giờ bước chân ra khỏi làng.
Hết cánh đồng, tôi xuống tới bờ kinh, nơi
có nhà cửa dân chúng ở cập theo hai bên con sông đào. Sở dĩ tôi chọn con đường
này tuy có xa hơn một chút nhưng vì đám bạn tôi ở đây. Mặc dù rất gắp về nhà
chuẩn bị cho kịp đi xuống nhà thầy Quý tối nay, nhưng tôi không thể không khoe
với đám bạn về tin động trời này.
Tôi ghé vào nhà nhà từng thằng bạn và chỉ
nói 6 tiếng “Ngày mai tao đi Sài Gòn” rồi lại chạy qua nhà khác. Nếu nó không
có ở nhà tôi nói với người lớn: “Thưa bác, làm ơn nói lại với thằng Inh là ngày
mai con đi Sài Gòn”. Có khi tôi còn nhờ đứa này thông tin giùm đứa khác vì tôi
không đủ thì giờ ghé nhà từng đứa, vả lại có đứa bạn bên kia sông nữa, tôi nói:
“Mầy nói giùm với thằng Bầu, tao đi Sài Gòn!” Cứ thế tôi làm như người phát thư
ghé từng nhà mấy thằng bạn và ghé càng nhiều nhà càng tốt, nên khi tôi về tới
nhà thì cả xóm trong ấp An Thành biết là tôi sắp đi Sài Gòn. Tuy nhiên, tôi đi
với ai và bao giờ đi và ở Sài Gòn trong
bao lâu thì họ không biết. Thật ra điều đó không quan trọng, quan trọng là
chuyện “Thằng Lễ đi Sài Gòn”. Một điều tôi biết chắc là mấy đứa bạn tôi và cả
rất nhiều người lớn ở xóm Cầu Đá nữa, chưa ai biết Sài Gòn là gì và chắc là họ
sẽ thèm cái hạnh phúc mà tôi đang có.
Tôi “bay” vô nhà mồ hôi nhễ nhại, thấy má
và chị Hai đang nhặt rau chuẩn bị làm cơm chiều, tôi nói ngay: “Má ơi má! Cha
cho con đi rồi”.
Tự nhiên chị Hai tôi làm mặt “ngầu” quay
ra phán một câu chết người: “Không đi đâu hết! Ở nhà!”
Tôi chựng lại và đứng chết trân khi nghe
câu đó. Xưa nay chị Hai vẫn là người có uy quyền. Mặc dù tôi không nghĩ là chị
vượt qua được quyết định của cha tôi, nhưng ý kiến của chị bao giờ cũng nặng
ký, tôi đâm ra lo vì không biết tôi có tội gì nặng đến nỗi chị Hai phạt không
cho tôi đi Sài Gòn. Tôi rất lo lắng vì chị Hai là người biết những “tội” của
tôi rõ nhất.
Tôi nhìn má cầu cứu nhưng má quay mặt qua
phía khác, tôi chới với nói: “Nhưng...” Chị Hai cướp lời tôi: “Không nhưng
không nhị gì hết, mầy làm biếng và ở dơ
lắm không đi đâu hết. Ở nhà!”
Nghe nói thế tôi mừng và đoán là má và chị
Hai bàn nhau dọa tôi chứ cái tội làm biếng và ở dơ đâu có là yếu tố cản trở tôi
đi Sài Gòn. Không lẽ tất cả mọi người đi Sài Gòn đều siêng học và trắng trẻo
sạch sẽ cả hay sao? Có lẽ thấy hù tôi như vậy đã đủ nên má lên tiếng: “Đi cắt
tóc đi con, rồi về chị Hai tắm cho để còn ăn cơm rồi đi!”
Tôi thở phào nhẹ nhõm! Thì ra má và chị
Hai thấy tôi mừng quá nên hè nhau trêu tôi cho vui!
Tôi chạy qua chú Sáu Vinh nhờ cắt tóc,
trong lúc ngồi trên ghế tôi nói:
- Chú nhớ cắt cho đẹp giùm nhé, ngày mai
con đi Sài Gòn đó chú!
Tôi rất sung sướng và hãnh diện khi nghe
chú Sáu tôi hỏi:
- Con nói gì? Ngày mai con đi Sài Gòn à,
mà đi với ai?
- Con đi với thầy Quý, thầy cho con theo
lên Sài Gòn coi lễ Quốc Khánh!
Chú Sáu Vinh trầm trồ:
- Con có phước quá, chú còn chưa biết Sài Gòn là gì, mà
chắc cho tới chết chú cũng không có dịp đi Sài Gòn, nói chi mấy đứa nhỏ!
Sau đó chú cháu tôi nói chuyện về đề tài
Sài Gòn cho tới khi chú cắt tóc cho tôi xong. Tôi ngồi chỉ mong chú cắt cho
nhanh một chút, nhưng chú vẫn
rề rà với cái tông-đơ rỉ sét ngâm trong dầu lửa của chú. Cái tông-đơ già nua
này mỗi khi chú bóp một đường tóc trên đầu tôi, hất tóc ra thì lần nào nó cũng
“ngoạm” thêm dăm ba sợi tóc, có khi hàng
chùm giật bung cả gốc rễ lên.
Nhiều lần tôi ngồi cắt tóc phải cắn răng
chịu trận mà nước mắt chảy dài vì chú vừa cắt vừa nhổ tóc đau không chịu thấu.
Mặc dù vậy tôi vẫn phải nhờ chú cắt tóc vì chú không lấy tiền, trong khi tới
tiệm phải tốn mấy đồng. Sau khi hớt bằng
tông-đơ xong, tới màn cạo chân tóc bằng con dao thật bén chú liếc vào miếng da
nghe sột sạt trước khi cạo. Tôi sợ cái đoạn này vô cùng vì có lần không hiểu vì
chú lơ đễnh hay vì tôi ngồi không vững mà chú thẻo một mãng tai tôi, máu me
lênh láng! Vì thế lúc còn trẻ tôi rất ngán việc đi cắt tóc.
Trong lúc tôi cắt tóc thì ở nhà chị Hai
chuẩn bị mấy cái xơ dừa để kỳ cọ cho tôi. Lần đó chị vì chuẩn bi cho tôi đi Sài
Gòn nên chị kỳ cọ kỹ hơn bằng những cái xơ dừa mới rất cứng làm tôi gần bật máu
ra, đau chịu không thấu nhưng không dám kêu vì mỗi lần kêu là ăn một cái vã vào
má kèm theo câu nói nghề nghiệp của chị: “Mầy còn la hả? Coi nè, hờm hố nè! đồ
ở dơ như tù!”
Trong lúc tôi đang tắm, có vài thằng bạn
kế bên nhà tới chơi và tỏ vẻ thán phục về việc tôi đi Sài Gòn. Đứa nào cũng dặn
lên đó thấy gì về kể lại cho tụi nó nghe. Tôi khoái chí vênh mặt lên đáp: “Tụi
mầy khỏi phải lo, tao sẽ nhớ hết và kể lại tụi bây nghe!”
Tôi quên nói là trong lúc chị Hai đang kỳ
cọ cho tôi dưới cầu bến, có hai bà từ xóm trong đi ngang đứng lại nói chuyện
với chị Hai và họ nói có nghe mấy đứa nhỏ cho biết ngày mai tôi đi Sài Gòn, và
các bà nhìn tôi đầy vẻ thán phục và thèm thuồng, vì con của các bà là bạn tôi.
Lúc đó tôi nghĩ biết đâu trong lòng các
bà ước mơ: “Giá mà con mình được như thằng Lễ!” Nghĩ như vậy làm tôi thích thú
và nhất là qua các bà này, tôi được biết cái tin tôi đi Sài Gòn được đồn đi rất
nhanh, không phải xóm ngoài thôi mà cả xóm An Thành Tây cũng đã biết! Tôi thích
vô cùng.
Kỳ cọ xong, anh Sáu Ngãi chở xe đạp xuống
chợ Mai Phốp cho tôi lựa mua đôi săn-đan. Đây là đôi săn-đan. Từ nhỏ tới lớn
tôi vẫn đi chân đất. Tối thì rửa chân và đi guốc vào cho khỏi dơ bẩn mền chiếu.
Tôi lựa đôi màu đỏ, đế bằng cao-su trong, đôi săn-đan thơm phưng phức mùi da
mới. Tôi không biết nó có phải bằng da hay không nhưng cái mùi đó là cái mùi
tôi mới ngửi thấy lần đầu tiên và mùi thơm dễ chịu lạ lùng! Về nhà, tôi lo xếp
đồ đạc vào cái cặp da tôi dùng đi học.
Việc đầu tiên là xếp bộ quần áo “ăn nói”
gồm có một áo sơ mi trắng dài tay và một quần tây dài màu xanh, một cái khăn
rằn, bàn chải răng và thuốc đánh răng là cục tròn như đá vôi, khi dùng thì thắm
nước và mài bàn chải vào. Khi mua săn-đan về, tôi cũng nhét vào cặp đợi sáng
mai lên xe mới mang vì ở nhà quê này có ai mang giày bao giờ. Quãng 5 giờ
chiều, má dọn cơm cho tôi ăn để anh Sáu còn chở tôi xuống nhà thầy Quý. Tôi lên
ngồi nhưng có ăn được gì đâu, chừng chị Hai nói không ăn cơm thì: “Không đi đâu
hết”, buột lòng tôi phải cố nuốt một chén cơm cho xong chuyện.
Trên đường xuống nhà thầy Quý, tôi chỉ mặc
áo sơ mi trắng ngắn tay, quần sọt lưng thun đi chân đất, tay xách cặp da và sau
khi má cho một ít tiền tiêu, tôi khoanh tay chào má và chị Hai và từ giã ra đi.
Từ chiều tới giờ má và chị Hai thay nhau dặn dò tôi không biết là bao nhiêu
chuyện, nào là đi đường cho cẩn thận, nào là coi chừng xe cộ, nào là phải lễ
phép với gia đình thầy Quý, nào là... Nhưng thật tình, tôi không nhớ một điều
nào cả. Khi xuống tới Mai Phốp trời đã nhá nhem tối, anh Sáu quay về còn tôi
xách cặp bước vô nhà lúc thầy Quý đang sắp xếp quần áo vào valise, tôi lên
tiếng:
- Chào thầy, cha má con cho con đi Sài Gòn
rồi, con xuống nè!
Thầy Quý có vẻ ngạc nhiên, yên lặng quay
ra nhìn làm tôi nổi da gà, một lúc thầy mới hỏi:
- Thế Lễ đi thật à?
Quỷ thần thiên địa ơi! Sao thầy Quý lại
hỏi tôi câu đó? Mới hồi trưa này thầy nói cho tôi đi sao bây giờ lại hỏi như
thế? Có gì trục trặc không? Thầy có cho tôi đi Sài Gòn không? Tôi bàng hoàng
đến điếng cả người, miệng mồm há hốc, người nóng ran như lên cơn sốt, nghe như
các lỗ chân lông hở ra! Tôi gần như té xỉu nên bước tới vịn tay vào thành kệ
sách.
Trong phút chốc tôi thấy trời như sụp đổ vì
nếu tôi không được đi Sài Gòn chắc tôi có thể chết mất vì thất vọng và nhục nhã
sau khi đã chạy khoe hết làng trên xóm dưới! Tôi không biết là thầy Quý có hiểu
được chút nào tâm trạng tôi lúc đó hay không. Tôi gượng nói mấy lời, giọng nghe
như khóc:
- Thầy! Sáng nay thầy nói cho con đi Sài
Gòn với thầy!
Sau câu nói đó tôi đứng nhìn thầy Quý
trong lúc thầy đứng yên suy nghĩ. Nếu có người dùng lối so sánh: “Một phút dài
hơn thế kỷ” thì chính là phút này. Giây phút đó tôi hồi hộp không có thể tưởng
tượng được vì hậu quả sẽ khác nhau một trời một vực giữa cái gật đầu và cái lắc
đầu của thầy Quý. Cuối cùng thầy nói:
- Thôi được! Lễ nằm ở ghế bố đó ngủ để
sáng mai dậy sớm đi, xe tài nhất lúc 4 giờ. Mà Lễ ăn cơm chưa?
- Dạ, con ăn rồi thầy.
Nếu chưa ăn tôi cũng nói ăn rồi, thực tình
lúc đó tôi chẳng còn mừng gì hơn . Vả lại sau giây phút căng thẳng đó thì còn
bụng dạ nào mà ăn với uống.
Nôn nao cùng cực
Lúc này thầy Quý ở trọ nhà ông Mười Tươi,
không còn ở bên trường học như lúc đầu. Căn nhà này khá rộng, thầy ở bên trong
còn bên ngoài phía trước là văn phòng, có mấy kệ sách và ít bàn ghế, nơi đây
cũng có kê sẵn một ghế bố nhà binh chỉ vừa đủ một người nằm. Tôi để chiếc cặp
da lên ghế và lên nằm trên ghế bố theo lời thầy nói.
Suốt đêm đó tôi không tài nào chợp mắt
được lấy một phút. Cái cảm giác kích thích và bồn chồn vì sáng mai được đi Sài
Gòn lần đầu tiên trong đời, tôi không biết phải diễn tả làm sao cho người khác
hiểu được. Tôi nằm trằn trọc, thao thức và trăn trở một lúc rất lâu, có lẽ gần
nửa đêm, thỉnh thoảng bước ra ngoài đi tiểu rồi lại vô nằm.
Khi biết là không thể ngủ được, tôi ngồi
lên thắp đèn bóng và tìm sách đọc chờ sáng. Tôi lựa trong kệ sách của thầy và
cầm lên quyển sách khá to, bìa màu đen, giấy trắng tinh và láng “Thành tích 5
năm chấp chánh của Tổng thống Ngô Đình Diệm”. Sách có khá nhiều hình ảnh. Tôi
nằm đọc và đọc mãi vừa nghe tiếng gõ cách quãng 15 phút của chiếc đồng hồ ODO
trên tường. Trước khi gõ có mấy nốt nhạc “tính tịnh tinh tình...” phát ra trước
rồi tiếng gõ sau. Tôi có cảm tưởng đồng hồ này đi quá chậm, tôi nằm mãi mà chưa
sáng.
Thầy Quý dậy lúc 3 giờ sáng định ra đánh
thức tôi, nhưng ra tới nơi đã thấy tôi dậy từ lâu. Thầy bảo tôi rửa mặt thay đồ
để ra đi cho kịp chuyến xe tài nhất chạy từ Trà Vinh lên ngang qua đây lúc 4
giờ sáng. Tôi bật dậy như cái lò xo. Giây phút tôi chờ đợi đã tới. Tôi lấy
chiếc cặp da ra, mò tìm bàn chải và thuốc đánh răng bước ra sàn nước bên ngoài
nhà.
Lạ lùng quá, khi tôi đứng lên lại bị chao
đảo tí nữa ngã xuống. Thì ra tôi thức và đọc sách suốt đêm làm đầu óc nóng ran
lên, chao đảo và mất thăng bằng khi vừa đứng dậy bước đi những bước đầu tiên.
Rửa mặt đánh răng xong tôi cảm thấy dễ chịu và tỉnh táo ra, vội bước vào nhà
thay quần áo. Tôi cởi bộ đồ đang mặc trên người xếp lại và thay vào bộ đồ “đi
Sài Gòn” tôi vừa lôi trong cặp ra. Bộ đồ duy nhất này tôi chỉ mặc khi đi lễ
ngày Chúa nhật mà thôi nên lúc nào cũng mới và thơm.
Tôi mặc vào người áo trắng dài tay xong, khi
mặc quần “ăn nói” vào thì mới hay là có tai nạn! Không phải là quần của tôi mà
là của anh Năm tôi! Thì ra chiều hôm qua trong lúc mừng quá, tôi đã vô ý lấy
nhầm cái quần của anh Năm tôi cho vào cặp da.
Sở dĩ có chuyện chết người này vì má may
cho ba anh em tôi mỗi đứa một cái cái quần dài xanh bằng vải “sạc kinh” (shark
skin) màu xanh y như nhau, chỉ khác nhau kích thước. Anh Năm tôi thì cao, và to hơn tôi nhiều. Anh
Sáu tôi còn cao hơn nữa! Khi tôi xỏ chiếc quần của anh Năm vào, nó rộng thùng
thình. Tôi kéo lưng quần lên gần tới vú mà hai ống quần cũng còn lòng thòng một
đoạn dài như hai cái vòi voi phủ cả hai bàn chân!
Tôi điếng người trước cảnh này vội cúi
xuống xắn ống lên, nhưng loại vải shark skin mình có hột này lại mềm nhũn, bóng
láng lại dầy và nặng, không làm sao có thể xắn lên cho được. Cứ xắn lên rồi lại
rơi xuống! Tôi làm thử mấy lần nhưng vô hiệu. Chết tôi rồi! Xe Sài Gòn sắp sửa
chạy, còn nhà tôi thì cách đó 2 cây số làm sao về lấy quần khác cho kịp.
Tôi đang loay hoay mặt mày nóng bừng, lại
bất ngờ mắc tiểu mặc dù tôi vừa đi tiểu xong lúc đánh răng. Tôi càng lính quýnh
hơn khi nghe tiếng thầy Quý giục: “Xong chưa Lễ ơi, thôi nhanh lên đi, kẻo nhỡ
xe!”
Tôi cảm thấy ù tai khi nghe tiếng thầy
gọi. Không còn cách nào khác hơn tôi đánh nước liều “Con xong rồi thầy.” và
mang vội đôi săn-đan mới, cài khuy lại cẩn thận. Khi tôi đứng lên với lấy cái
cặp da thì hai ống quần phủ mất đôi săn-đan và đùn lại một đống trên mặt đất!
Thầy Quý tắt đèn bước ra, tôi vội vàng theo sau, tay phải xách chiếc cặp da
bước đi trong đêm tối. Mặc dù là sáng tinh sương bên ngoài trời khá lạnh nhưng
mặt tôi vẫn nóng bừng.
Khổ vì cái quần
Vừa
đi được mấy bước tôi bị vướng víu lạ lùng. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi
mang giày săn-đan nên đôi bàn chân như có đeo hai dề đất sét cứng, có quai cột
vào chân, trong khi đó hai cái ống quần “ăn nói” lùng nhà lùng nhùng dư ra hàng
tất phủ cả đôi săn-đan làm tôi không thể bước đi được. Tôi cố bước theo cho kịp
thầy Quý đang rảo bước đi trước thì chân nọ lại đạp lên ống quần chân kia!
Lúc đó tôi ngầm than thở: “Trời ơi! sao
đời mình khổ! Đáng lẽ ra lúc này trong lòng phơi phới hân hoan thì bị hai cái
ống quần mắc dịch này nó hành hạ mình!” Lúc đó tôi phải gù người xuống dùng tay
trái thò xuống trước đùi túm lấy hai ống quần kéo lên, trong khi tay phải đang
cầm chiếc cập da. Trong tư thế đó, tôi không thể nào bước nhanh được mặc dù
thầy Quý đã bỏ tôi một đoạn đường khá xa. Thấy tôi còn lò mò phía sau, thầy
quay lại giục: “Lễ, đi nhanh lên, muộn rồi sợ nhỡ xe đấy, nhanh lên tí đi nào!”
Nghe tiếng gọi, tôi cố chạy theo thầy, nhưng
cũng không làm sao chạy nhanh được trong tư thế vừa đi vừa khòm và hai tay đang
bận cả hai. Chắc lúc bấy giờ thầy Quý cũng ngạc nhiên tại sao tôi đi quá chậm.
Trong đêm thầy không thấy gì cả, nhưng nếu thấy được cảnh đó chắc thầy sẽ cười
vỡ bụng và thương hại cho thằng bé nhà quê đang khổ vì cái quần.
Từ nhà thầy ở ra lộ đá quãng 300 thước và
phải đi qua nhà thờ Mai Phốp. Khi tới nhà thờ, thầy đứng lại đợi tôi rồi mới
tiếp tục đi. Từ nhà thờ ra đường cái chỉ một quãng ngắn nữa thôi, bất thần tôi
thấy ánh đèn xe hơi chiếu sáng rất gần, như thế là chiếc xe tài nhất đang trờ
tới, và ngay sau đó xe chạy qua. Lúc đó thầy Quý vừa chạy theo vừa cầm đèn bấm
dọi ngay xe và nâng lên hạ xuống mấy lần chủ ý gọi xe dừng lại, nhưng đã trễ,
xe chạy qua luôn trong khi thầy trò tôi cũng vừa trờ ra tới lộ. Chúng tôi tới
muộn chừng 30 giây đồng hồ!
Tôi đoán là thầy Quý không vui, rõ ràng là
tại vì tôi là nhỡ chuyến xe tài nhất. Nhưng ở đời, có khi cái rủi ro của người
này lại là cái may của người khác. Thầy Quý bị nhỡ xe là chuyện rủi nhưng may
cho tôi, nhờ đó tôi được cứu thoát. Lúc đó thầy có vẻ tiếc, nói với tôi: “Thôi
nhỡ xe tài nhất rồi, tiếc quá vừa ra đến nơi xe đã chạy qua. Thôi mình về nhà
nghỉ vì xe tài nhì mãi tới 6 giờ mới lên” Nói xong thầy trò tôi quay trở lại.
Vô tới nhà, việc đầu tiên là tôi tụt ngay
cái của nợ có hai cái vòi voi ra, vất lên ghế bố! Trông nó nằm một đống dài
nhằng và vô duyên như cái bao tải! Bề dài của nó gần bằng chiều cao của tôi. Nó
đang nằm ngửa nhìn tôi trong tư thế giễu cợt và thách thức. Tôi bực quá, cầm
chiếc cặp da nện lên cái quần “ăn nói” mấy cái kêu phình phịch, miệng mắng: “Tổ
cha mầy, mầy đã làm khổ tao!” Trong cơn tức bực tôi “đánh” cái quần mạnh quá
phát ra tiếng động khá to khiến thầy Quý
hỏi vọng ra:
- Làm gì ồn thế hở Lễ?
Tôi vội nói tránh:
- Chẳng có gì đâu thầy, con giũ bụi trên
ghế bố ấy mà!
Thầy có vẻ ngạc nhiên nói:
- Đầu hôm sao không giũ, bây giờ sắp đi
rồi giũ gì? Chừng về lại đầy bụi thôi!
Nghe thầy nói tôi ngồi lặng thinh lè lưỡi!
Cởi được của nợ ra xong, tôi mặc lại chiếc
quần sọt lưng thun duy nhất vừa thay ra lúc nãy. Mặc vào tôi thấy thoải mái, dễ
chịu, mặc dù đi Sài Gòn mà ăn mặc như thế chẳng ra làm sao nhưng không còn cách
nào khác hơn. Lúc đó tôi lại nghĩ, đời tôi thật may mắn vì được... nhỡ chuyến
xe vừa rồi. Nếu không, tôi đã phải mặc cái quần mà tôi có thể bơi trong đó được
để lên xe đi Sài Gòn. Không biết là sẽ ăn làm sao nói làm sao khi ban ngày trời
sáng tỏ và lúc tôi phải bước ra khỏi xe!
Tôi đành phải xếp cái quần vô tích sự đó
cho vào cặp da mang theo đi Sài Gòn, vì dù sao tôi cũng phải mang về trả nó lại
cho anh Năm, hơn nữa tôi cũng phải có cái gì nhét vào cặp da, không lẽ lại mang
cặp da rỗng đi Sài Gòn.
Gần tới 6 giờ sáng thầy gọi tôi ra đi. Lần
này tôi bước ra đường nhẹ nhàng thơi thới trong chiếc quần sọt lưng thun, mang
săn-đan. Thấy tôi ăn mặc đơn sơ quá thầy hỏi:
- Ủa Lễ, sao ăn mặc thế? Còn quần dài đâu?
Tôi nói tránh đi:
- Con mặc quần dài không quen sợ ngồi xe
nóng thầy à!
Nghe tôi nói thế thầy có vẻ ngạc nhiên, nhưng
cuối cùng nói:
- Thôi mặc thế cũng được!
Hai thầy trò tiếp tục rảo bước. Lần này thì
thầy Quý chẳng cần phải giục và cũng chẳng phải dừng lại chờ tôi. Lúc dang đi
tôi nghĩ, nếu thầy tinh ý ra sẽ tìm hiểu tại sao lần trước tôi đi chậm mà lần
này lại bước đi nhanh quá, có lúc còn vượt qua thầy!
Xe tài nhì là xe Tân Hòa tới đúng giờ. Lần
đầu tiên tôi được ngồi trên xe Sài Gòn mà từ trước tới giờ tôi ước ao làm sao
có dịp được ngồi trên xe đó. Nhớ lại lúc cùng bọn trẻ chăn trâu, thả trâu ăn gần
lộ đá, chúng tôi hay lên lộ chơi và hay nghịch ngợm bày trò chọi xe khi xe chạy
qua. Nhưng đặc biệt là bọn tôi không bao giờ chọi xe Sài Gòn vì thấy nó đẹp, nó
sang quá làm tôi tiếc không muốn chọi sợ nó hư.
Bây giờ tôi đang là một hành khách trên
chiếc xe đi Sài Gòn. Sau khi xe qua thành phố Vĩnh Long thì trời đã tờ mờ sáng,
tôi giương to cặp mắt quan sát cảnh vật. Từ trước tới nay tôi chỉ tới Vĩnh Long
là xa nhất, nhưng sáng hôm nay tôi sẽ còn ra khỏi Vĩnh Long, qua bắc Mỹ Thuận
và ngồi xe thêm 150 cây số nữa mới tới Sài Gòn! Còn hạnh phúc nào hơn!
Xe qua khỏi Vĩnh Long 9 cây số tới bắc Mỹ
Thuận. Từ trước tới giờ nghe nói bắc Mỹ Thuận nhưng tôi có biết cái cảnh người
ta dùng tàu chở xe qua sông bao giờ đâu, bây giờ mới thấy tận mắt. Vì kẹt xe
nên thầy trò đi qua bờ bên kia trước. Lúc này trời vừa mới sáng, thầy Quý bảo
tôi vào quán ăn điểm tâm trong khi chờ xe tôi qua. Khi bước vô quán kéo ghế
ngồi xuống, thầy hỏi tôi:
- Lễ muốn ăn gì?
Tôi có biết gì đâu mà nói nên trả lời:
- Con đâu có biết, thầy ăn gì con ăn nấy.
Thầy cười đáp lại:
- Thế ăn bánh bao nhé?
- Dạ.
- Uống cà phê sữa nhé?
- Dạ.
Tôi ăn cái bánh bao nóng rất ngon, quá là
ngon! Ăn xong tôi còn thèm nhưng ngại không xin cái nữa. Chừng đưa cà phê sữa
ra, tôi để ý coi thầy làm sao tôi bắt chước, vì từ nhỏ tới giờ tôi chưa uống cà
phê bao giờ. Thầy Quý uống cà phê coi rất ngon, thấy vậy tôi cũng bưng ly hớp
một hớp.
Vừa nuốt qua khỏi cổ tự nhiên tôi không
chịu được, sao cà phê đắng quá như uống thuốc bắc, làm tôi buồn nôn. Không dằn
được tôi phải chạy ra ngoài đường ngồi nôn xuống đất. Thầy Quý thấy vậy thương
tôi, bảo không quen uống thì bỏ đi. Tôi xin lỗi thầy thì thầy nói có gì mà xin
lỗi tại vì tôi chưa quen đó thôi.
Thế giới mới
Con
đường từ bắc Mỹ thuận lên Sài Gòn ngang qua ngã ba Trung Lương, qua cầu Long
An, cầu Bến Lức... cảnh nào đối với tôi cũng lạ mắt. Sau khi qua ngã ba Trung Lương
tôi thấy đoàn xe lửa thật dài chạy cặp theo đường lộ xe hơi, đây là xe lửa đầu
tiên tôi được trông thấy. Khi tới cầu Bến Lức, bị kẹt xe khá lâu vì phải chờ xe
bên kia qua cầu. Lúc dừng xe có rất nhiều cô gái bán khóm đã gọt sẵn và bổ
thành từng miếng, có chén muối ớt bên cạnh. Khi có người mua thì cô gái dùng
cái que nhỏ cũng làm bằng cùi khóm để quét muối ớt lên miếng khóm rồi trao cho
khách.
Bà khách ngồi kế bên tôi cắn miếng khóm có
xát muối ớt làm nước từ miếng khóm chảy ra ướt xuống tới cầm, bên này nước dãi
tôi cũng tuôn ra cuồn cuộn.
Tôi quay đi nhìn ra hướng khác vừa nghĩ
giá mà thầy Quý mua cho tôi một miếng khóm chắc tôi thích không còn gì bằng, nhưng
tôi không hỏi xin thầy! Khi xe chạy vào Chợ Lớn và sau cùng vô Sài Gòn ngừng
tại bến xe Petrus Ký, tôi thực sự bị choáng ngộp.
Tôi không thể nào tưởng tượng Sài Gòn lớn
lao, tưng bừng náo nhiệt đến như thế. Nào người, nào xe, nào hàng quán. Lúc nhìn
thấy thế tôi tự hỏi không biết còn có nơi nào trên mặt đất này to lớn và đẹp
như Sài Gòn hay không. Khi chuẩn bị xuống xe, thầy Quý dặn tôi lúc nào cũng
phải đi bên thầy vì sợ tôi bị lạc.
Vừa bước xuống, tôi thấy có người tới mang
valise của thầy lên xe nhỏ đậu gần đó, tôi tưởng đó là người nhà mang xe đón và
đó là xe của thầy, tôi nghĩ: “Thì ra thầy của mình giàu quá mà mình không biết”
Trong lúc ngồi xe, thầy chỉ tôi Dinh Độc Lập, Nhà thờ Đức Bà, sở thú Sài Gòn,
cầu Thị Nghè, đó là 4 nơi tôi biết đầu tiên khi vừa đặt chân tới thủ đô Sài Gòn
mà người ta gọi là Hòn ngọc Viễn Đông này. Chừng qua tới cầu Sơn bên kia Thị
Nghè, xe rẽ trái vào chủng viện Xuân Bích, thầy trò xuống xe, thầy móc bóp trả
tiền và xe chạy, tôi hỏi, thầy cho biết đó là Taxi. Tôi biết Sài Gòn có xe Taxi
từ lúc đó.
Sau khi thầy Quý lo một vài công việc, gần
trưa chúng tôi về nhà người chị của thầy ở Xóm Mới, quận Gò Vấp. Vô tới nhà và
được nghỉ ngơi, tôi mừng vô hạn vì khi đi được một đoạn đường thì hai bàn chân
tôi bị quai giày săn-đan cọ rách da, chảy máu. Hai bên ngón chân út cũng bị mềm
nhũn như hai trái chối chín và chảy máu đau đớn quá chừng. Thật không gì khổ
cho bằng mang giày lần đầu. Nếu hồi sáng, lúc cởi được cái quần “vòi voi” ra
coi như bỏ được của nợ thì lúc này cởi được đôi săn-đan ra tôi coi như cởi được
hai cái gông cùm.
Chiều hôm đó trong nhà làm cơm có món ốc
bưu xào với chuối xanh và lá tía tô. Lần đầu tiên tôi mới biết món người Bắc
này và ăn rất ngon miệng. Lối sống của người Bắc có những cái rất hay. Năm 1954
khi người Bắc di cư vô Nam có một số khá đông về tạm cư trong họ Bưng Trường và
cũng có mấy gia đình ở trọ nhà tôi, nhưng lúc bấy giờ tôi còn nhỏ, chưa biết
nhiều về người Bắc, lúc đó nghe giọng nói hơi khác lạ, tôi lại tưởng họ là
người nước nào tới không phải là người Việt Nam.
Thầy Quý có người cháu trai tên là Hán,
anh lớn hơn tôi 3 tuổi và đang học lớp đệ tứ. Hán sang chơi với tôi và suốt
trong thời gian tôi ở Sài Gòn anh đưa tôi đi đây đó. Có điều buồn cười là người
Nam chúng tôi đọc chữ “Hán” ra chữ “Háng”, nên tôi không dám gọi tên anh, chỉ
gọi là anh Ba, theo cách gọi của người Nam. Lúc đó tôi lại nghĩ thầm: “Sao anh
Ba có cái tên kỳ quá! người miền Nam chúng tôi chẳng bao giờ có người tên là
Hán cả!”
Đêm đó tôi ngủ ngon vì thức trọn đêm trước
và đi đường xa mệt và thêm hai bàn chân bị đau như dần. Sáng ngày thức dậy đã
thấy anh Ba ngồi đợi để đưa tôi đi chơi. Thức dậy, tôi nghe hai bàn chân ê ẩm
và đau nhức mặc dù mấy chỗ rách da chảy máu hôm qua đã đóng mày đen. Tôi biết
không thể nào mang săn-đan được, nên cúi xuống sàn giường định tìm đôi giày gói
giấy cất đi, đợi khi nào chân hết đau sẽ mang. Chừng cầm đôi san-đan lên thì
hỡi ôi!
Đêm qua con chuột chết tiệt nào đã đánh
mùi máu tới cắn đứt hết các chỗ có dính máu trên quai săn-dan. Tôi nhìn đôi
giày mới toanh bị đứt hết các quai nằm há mồm dưới đất nhìn lên cách đau khổ
khiến tôi vừa tiếc của, vừa buồn cười lại vừa giận con chuột rủa thầm: “Mẹ, con
chuột khốn kiếp! Ông mà rớ được mầy, ông bẻ cho mầy gãy không còn cái răng!”Từ
đó Hán cho tôi mượn đôi guốc và tôi mang guốc suốt những ngày tôi đi dạo phố ở
thủ đô Sài Gòn.
Nhờ có Hán dẫn đi chơi, tôi được vào thăm
khá nhiều nơi như sở thú, chợ Bến Thành, Nhà thờ Đức Bà, Bến Bạch Đằng, trường
đua Phú Thọ, hội chợ Thị Nghè... và nhiều nơi khác nữa. Trong dịp đó tôi được trông thấy Tổng thống
Ngô Đình Diệm đi duyệt binh trong ngày Quốc khánh 26 tháng 10 và cũng chứng
kiến cảnh người ta chen nhau chạy sau khi cây cầu nổi bắt ngang sông Thị Nghè
trong dịp hội chợ bị sập trong đêm làm khá nhiều người bị chết đuối.
Tôi cũng ghi nhớ cảnh sở thú Sài Gòn và
những giống thú mà từ xưa giờ chỉ được coi trong hình. Điều này làm tôi vô cùng
thích thú vì ngoại trừ con voi là tôi đã có dịp thấy qua trong lần những người
bán thuốc cao đơn hoàn tán cỡi voi tới chợ Mai Phốp quảng cáo thuốc, ngoài ra
tôi chưa bao giờ thấy qua các giống thú lạ và to như sư tử, cọp, gấu, beo, cá
sấu...
Tô phở đầu đời
Cũng trong dịp đi Sài Gòn đó, tôi được Hán dẫn
đi ăn tô phở lần đầu tiên trong đời. Tôi còn nhớ buổi sáng hôm đó Hán chở tôi
trên xe đạp tới nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở đường Kỳ Đồng. Sau khi viếng nhà
thờ, chúng tôi ra bên ngoài rào nhà thờ, nơi có một xe bán phở bên lề đường,
gần bên có mấy cái bàn nhỏ và thấp với mấy cái ghế gỗ nhỏ xíu cao hơn mặt đất
chừng 10 phân mà miền Nam chúng tôi gọi là ghế bán cá, tức là các bà bán cá
ngoài chợ thường dùng. Hán gọi hai tô phở tái.
Khi tô phở mang ra cùng với đĩa rau có ít
ngò gai, húng quế và chanh, ớt... tôi nghe mùi thơm rất lạ và hấp dẫn mà lần
đầu tôi mới được biết. Vừa ngửi mùi là nước miếng tôi bắt đầu ứa ra, trong khi
Hán giúp tôi các thủ tục trước khi ăn phở. Anh biểu diễn một cách thành thạo
nhưng chậm rãi các động tác như nhặt gò gai, húng quế, vài cọng giá sống phủ
lên mặt tô phở đang nghi ngút khói, không quên vắt miếng chanh vào.
Tôi tưởng như thế đã xong vì lúc này nước
miếng tôi đã gần đầy trong miệng và tay phải tôi đã cầm sẵn đôi đũa tre như một
kiếm sĩ cầm giáo nơi tay sẵn sàng chiến đấu. Đôi mắt tôi mở to đang theo dõi
từng động tác nhỏ nhất của đôi tay Hán. Tôi đã mất hết kiên nhẫn của một thằng
bé nhà quê lần đầu tiên được ngửi hương thơm của một món ăn đầy hương vị mà cả
đời chưa bao giờ được nếm qua, nhưng Hán lại quá vô tình không hiểu được tâm
trạng tôi lúc đó. Tôi đang chờ đợi anh ban hiệu lệnh: “Rồi đó Lễ, ăn đi em”,
thì ngược lại anh ta dừng tay ngước lên bắt gặp đôi mắt của tôi đang mở to gần
bằng... tô phở đang nhìn... tô phở, anh hỏi:
- Lễ có ăn được ớt không?
Tôi chẳng để ý nghe câu hỏi của anh vì lúc
bấy giờ tất cả tâm trí tôi đang vướng bận về chuyện khác. Tôi vội trả lời một
câu mà sau này mỗi lần nhớ lại tôi vẫn còn cảm thấy xấu hổ:
- Xong chưa anh? Em không cần gì đâu, em
ăn như vậy được rồi!
Tôi ấp úng câu nói đó trong khi cố giữ
không cho nước miếng tràn ra khỏi miệng nhưng Hán vẫn vô tình không hiểu điều
đó. Có lẽ vì Hán nghĩ là ai cũng như anh đều có thể “bình thản” trước một tô
phở tái mới vừa bưng ra đang bốc mùi tỏa hương thơm ngào ngạt.
Sau câu trả lời lạc đề đó của tôi, tôi
tưởng là cuộc tra tấn đã chấm dứt, nào ngờ Hán vừa từ tốn đặt miếng võ chanh
lên mặt bàn, vừa cho tay vào túi quần tây lôi ra chiếc khăn tay màu cháo lòng
đã nhàu nát và cẩn thận chùi đi chùi lại các ngón tay còn dính mấy tép chanh
chỉ to bằng con kiến, vừa rề rà giải thích cho tôi biết là ăn phở phải có tí ớt
mới “sướng!”
Trong khi anh đang say sưa với bài giáo
khoa nhập đề khá dài về cách ăn một tô phở, nhưng không một tiếng nào lọt được
vào tai tôi, tôi liếc nhìn qua chiếc bàn con bên cạnh thấy một cô gái trạc bằng
tuổi tôi ngồi một mình đang xì xụp chiến đấu với tô phở bốc khói, mặc dù cô bé
gọi phở sau chúng tôi. Thỉnh thoảng cô bé đưa khăn tay lên xì mũi có lẽ vì ăn
phải ớt. Cảnh này càng làm tôi thêm sốt ruột.
Lúc này tô phở của tôi vẫn còn bị Hán giam
giữ trước mặt anh và nằm sóng đôi với tô phở của anh chưa qua “thủ tục” ngò
gai, húng quế... Tôi bực mình nhìn vào mặt của Hán, thấy anh ta thật đáng ghét
vì tật nói dai. Lúc bình thường đi chơi với tôi, khi cần giải thích về khung
cảnh Sài Gòn cho tôi nghe thì anh lại câm như hến, không hiểu mắc chứng gì mà
lúc này anh lại nói, và còn nói dai nữa. Rồi cuối cùng Hán cũng ban cho tôi một
ân huệ khi anh đẩy tôi phở qua trước mặt tôi sau khi cẩn thận nhét chiếc khăn
tay phải gió của anh vào túi quần.
Tôi đưa cả hai tay ra, run run đón lấy tôi
phở có phủ lớp rau bên trên mà tôi biết là sẽ rất ngon mặc dù tôi chưa nếm qua.
Lúc này tôi chẳng còn để ý tới những gì chung quanh, thế giới của tôi bây giờ
bị thu nhỏ lại chỉ to bằng... tô phở tái.
Tôi kéo dịch cái ghế bán cá lại gần chiếc bàn cho đúng tầm và không kịp
đưa tay làm dấu thánh giá như thói quen từ nhỏ tôi được dạy là bao giờ cũng
phải làm dấu trước khi ăn, tôi cúi xuống kề miệng vào thành tô húp một chút
nước súp của tôi phở. Một cảm giác đê mê chạy rần vào thân thể sau khi đầu lưỡi
tôi chạm với loại nước súp ngon một cách lạ lùng này. Nếu có ai nhìn sẽ cười
tôi về cữ chỉ kề môi húp phở đó.
Thật ra không phải vì tôi quá thèm mà ăn
uống cách bất lịch sự như vậy, nhưng vì lúc đó trong miệng tôi đã đầy nước
miếng nếu tôi mở miệng sẽ tràn ra ngoài nên lý do tại sao tôi kê môi vào húp
thẳng vào tô phở đó chỉ có một mình tôi biết và tự tha thứ cho chính mình. Ngụm
nước súp là mtôi hừng chí! Vừa định cho đũa vào tô phở chợt tôi lại nghe cái
giọng đáng ghét của Hán từ bên kia bàn:
- Ấy! Lễ, anh chưa cho tương, từ từ đã!
Đợi anh cho tương vào. Ăn phở mà không có tương
mất hết vị.
Tôi bị chặn lại trong giây phút bất ngờ
nhất nên vừa bực mình vừa xấu hổ nhưng đành phải rụt tay lại ngồi chờ trong khi
Hán đưa tay với lấy cái ống bằng nhựa to bằng cổ tay, đen sì sì và đầy cáu ghét
nằm ở góc bàn. Trên miệng ống có cái vòi rỗng ruột như cây đinh ở đầu được cắt
bằng, lộ ra một cái lõ nhỏ bằng cây tăm mà tôi biết đó là cái lọ đựng tương.
Hán với tay ngang bàn cầm dốc ngược lọ xuống chỉa cái vòi vào tô phở của tôi và
bóp phần trên cái lọ nhựa trong sự chờ đợi đã mất hết kiên nhẫn của tôi.
Hán cứ bóp... bóp... và bóp mãi nhưng
không có mộ thứ gì chui ra khỏi cái lỗ ở đầu chiếc vòi. Cuối cùng chỉ có tiếng
gió xì xì vọt ra, thì ra lọ tương đã rỗng tự bao giờ. Hán có vẽ thất vọng, lộ
chút bực mình và có lẽ cũng vì mất mặt với tôi nên trút cơn giận lên bà chủ
đang lúi húi ở chiếc xe phở có mấy người khách đang bao vây. Hán cao giọng:
- Bà chủ này! Tương đã hết thì còn để lọ
đây làm gì? Dẹp đi! Cho lọ tương khác đi.
Giọng của Hán rõ ràng là mất lịch sự như
muốn ra lệnh. Nhưng người đàn bà dường như không nghe hoặc là cố ý không nghe,
trong khi đôi tay của bà hết chụp cái này bóc cái khác liên hồi trên chiếc xe
bán phở nhỏ nhưng đông khách. Không thấy hồi âm, giọng Hán chuyển sang một cung
cao hơn:
- Bà chủ! Còn tương không? Cho một lọ đi
chứ, tôi gọi bà không nghe à?
Bà chủ vẫn cúi đầu và bận rộn với số khách
đang đứng gần nhìn hau háu vào đôi tay thành thạo của bà đang chuẩn bị các tô
phở cho họ. Thấy tình thế có vẽ căng tôi nói với Hán:
- Thôi kệ đi anh, ăn phở không có tương
cũng được mà! Mất vị chút có sao đâu.
Vừa nói tôi vừa xỏ đũa vào tô phở đang nằm
trước... miệng, trong tư thế mời gọi gọi vô cùng hấp dẫn. Hán vội đưa tay chận
tay cầm đũa của tôi lại:
- Không, chờ tí nữa, có ngay ấy mà. Ăn phở
mà không có tương còn ra gì!
Một lần nữa tôi bị khựng lại. Lúc này tôi
nghĩ không phải vì Hán câu nệ vào tô phở có tương hay không, nhưng có lẽ vì anh
muốn ăn thua đủ với bà chủ hàng phở không để ý lời anh gọi xin tương đã hai
lần. Có lẽ thấy ngồi tại chỗ không ăn thua, Hán đứng lên bước thẳng lại xe và
xẵng giọng nói với bà chủ:
- Bà chủ cho tương đi. Tôi gọi hai lần rồi
bà không nghe à!
Người đàn bà trẻ đang bận tay không quay
lại nhưng nói nhẹ nhàng:
- Cậu làm ơn coi bàn nào có lấy hộ tôi.
Tôi đang bận tay quá, cậu thông cảm.
Mấy người khách đang đứng bên quay lại nhìn
Hán. Nghe nói thế Hán nhìn quanh và bước
lại bàn có cô bé ngồi một mình lúc nãy. Anh làm hiệu xin mượn lọ tương, cô bé
đang ngồi xỉa răng mỉm cười và gật đầu.
Vừa gắp miếng phở đầu tiên vào miệng tôi
nghĩ trong lòng: “Lạy Chúa tôi ơi! trên đời này còn có món gì ngon như thế này
nữa hay không?” Lúc đó tôi chợt nghĩ chắc là ngày xưa các vua chúa và những
người giàu sang quyền quý nhất trên đời lúc nào cũng ăn phở. Ăn phở 365 ngày
trong năm! Và lạ lùng thay, tô phở mà tôi ăn khi ngồi bệt xuống trên chiếc ghế
bán cá sát mặt đất bên lề đường Kỳ Đồng đó là tô phở ngon nhất mà sau này dù có
ăn phở ở đâu tôi cũng không bao giờ có lại được cái cảm giác tuyệt vời như thế.
Những cuộc
“họp báo’’
Sau
một tuần lễ ở Sài Gòn, tôi trở về quê một mình trong khi Thầy Quý ở nán lại
thêm mấy hôm. Trên chuyến xe về tôi vẫn
mặc chiếc quần sọt duy nhất đó, chân mang guốc vì đôi săn-đan mới mua và mang
chỉ có một lần đã “bỏ xác’ ở Sài Gòn. Tôi cũng tiếc cho đôi giày mới nhưng khi
nghĩ là chuyến đi Sài Gòn đó đối với tôi thật quý báu không gì sánh bằng, nên
dù có mất đôi giày cũng chẳng có gì là thiệt thòi. Vả lại tôi chỉ cần mang giày
cho chuyến đi, còn chuyến về này thì cần gì, mang gì chẳng được, có đi chân đất
cũng không sao vì về tới quê là tôi lại bắt đầu đi giày da, nhưng là da của hai
bàn chân mình!
Khỏi phải nói, khi nhập học lại sau kỳ
nghỉ Quốc Khánh năm đó, tôi tự nhiên trở thành “trung tâm của Mai Phốp!” Đám
bạn trong lớp cả trai lẫn gái vây quanh tôi hỏi chuyện. Tôi đã “họp báo” hàng
tháng trời nhưng vẫn còn chuyện nói về chuyến đi Sài Gòn và đám bạn cứ há hốc
mồm ra ngồi nghe, thái độ của các bạn càng làm tôi hừng chí nói hăng hơn. Những
cuộc “họp báo” như vậy tôi đã dợt trước với nhóm bạn chăn trâu với tôi ở Cầu Đá
rồi.
Tôi cố gắng kể lại thật chi tiết và trung
thực những gì tôi nghe và thấy trong chuyến đi lịch sử. Chỉ có chỗ nói về sở
thú Sài Gòn và mấy con thú như sư tử, cọp, gấu thì tôi cố ý nói nó... to hơn
một chút cho tụi bạn ngán chơi.
Thí dụ như con sư tử to bằng con bê thì
tôi nói bằng con... bò nhỏ! Mặc dù con bò nhỏ và con bê cũng là một nhưng tôi
có cảm tưởng khi nói con bò nhỏ nghe như to hơn con bê! Tôi cũng kể với nhóm
bạn học là tôi có coi chiếc tàu chiến rất lớn là tàu “Saint Paul” của Mỹ cặp
bến Bạch Đằng trong dịp lễ Quốc Khánh, và khi Tổng thống Ngô Đình Diệm xuống
thăm thì tàu có bắn 21 phát đại bác chào mừng. Có đứa con gái chen vào hỏi:
- Chiếc tàu chiến lớn như thế nào hả Lễ?
Thật tình tôi cũng chẳng biết nó lớn như
thế nào, nhìn qua ngó lại tôi nói:
- Nó lớn như cái nhà thờ kia kìa!
Đứa con gái nghe vậy lè lưỡi tỏ vẻ kinh
ngạc, trong khi tôi tự hỏi là tôi so sánh như vậy có thực sự đúng không. Một
chiếc tàu chiến của Mỹ thì lớn hay nhỏ hơn cái nhà thờ, tôi cũng không biết
nhưng lúc đó chỉ có cái nhà thờ là lớn nhất trong làng nên tôi dùng nó để so
sánh. Có vậy thôi!
Hai vị Linh mục
Cuối năm 1957, cha Lê Vĩnh Trình, sau 17 năm ở
họ đạo Mai Phốp được đổi đi về coi xứ đạo Cái Bông trong tỉnh Bến Tre và cha
Nguyễn Văn Tỏ từ Trà Ôn về thay. Sự thay đổi này vô tình cũng đã ảnh hưởng tới
cuộc đời tôi rất nhiều, cả về mặt tôn giáo lẫn việc học hành.
Cha Trình và cha Tỏ khác nhau về nhiều phương
diện. Sự tương phản quá nhiều về con người và lối sống của hai vị Linh mục mà
tôi biết đầu tiên trong đời này đã để lại trong tôi những ấn tượng rất sâu xa.
Cha Lê Vĩnh Trình như tôi đã nói là con người oai phong lẫm liệt, thân hình
chắc nịch, thích chơi bóng đá, dáng đi đường bệ, lối sống thượng lưu quý phái
theo kiểu tây.
Lúc đó cha Trình tóc bạc hoa râm và húi
cao, đầu chải rẻ ba và tôi thấy chú Út Thông ở gần nhà thờ tới cắt tóc cho cha
Trình mỗi tuần một lần đúng vào chiều thứ Bảy. Vì lớp học của tôi nằm ngay sau
nhà bếp của cha Trình nên tôi thấy và nhớ rất rõ việc đó. Vả lại lúc bấy giờ
mỗi lần thấy như vậy tôi còn thầm nghĩ: “Ông này có phước thật, được vò đầu cha
Trình là người tôi sợ như ông trời!” Những lúc không mặc áo chùng đen thì ngài
vận đồ sọt, nhìn vào đã thấy khỏe mạnh và oai vệ.
Ngược lại cha Nguyễn Văn Tỏ gầy còm, ốm
yếu như một người đàn bà không đẹp, có thân hình mỏng, tóc đen và dài chải ngược
về sau nhìn từ xa như lúc nào cũng đội bê rê đen! Chẳng những thế, ngài còn bị
chứng bệnh thịt dư trong mũi, và cách quãng chừng 5 phút một lần phát ra âm
thanh rất lạ 4 tiếng đi liền nhau từng đôi một “khẹt khẹt... khẹt khẹt”, sau đó
đưa khăn tay lên xì mũi một thôi một hồi!
Ngay từ lúc đó tôi đã nghe người ta gọi
ngài là “cha Tỏ khẹt”. Dĩ nhiên là chỉ gọi sau lưng ngài. Cha Tỏ bước đi nhanh
nhẹn và nhẹ nhàng thư thái như một dáng đi con mèo. Lúc nào không vận áo chùng
thâm thì là chiếc áo khẩu đen và quần lãnh theo kiểu các Mệ người Huế. Cha Trình
ra khỏi giáo xứ bằng một đoàn xe hơi và rất nhiều người đưa tiễn, cha Tỏ cỡi xe
máy dầu tới nhận xứ. Khi tới họ đạo Mai Phốp này, cha Tỏ mang theo gia đình ông
từ Quan với mấy đứa con trai trạc bằng tuổi tôi. Ông từ Quan và những đứa con
của ông cũng bệ rạc không kém gì ông chủ của họ.
Nói tóm lại, hai vị linh mục này là biểu tượng
điển hình của sự oai vệ và sự yếu đuối. Chính vì thế tôi không ngạc nhiên khi
thấy sự tương phản về lối sống và tư cách và lối hành sử công việc của hai con
người nắm quyền uy tôn giáo trong họ đạo tôi sống lúc bấy giờ. Việc này có ảnh
hưởng tai hại tới đầu óc của một chú bé 14 tuổi như tôi.
Điều làm tôi ngạc nhiên tới sửng sốt là
ngay trong ngày Chúa nhật đầu tiên sau khi về nhận họ đạo, tôi đã nghe cha Tỏ
lên tòa giảng đả kích cha Trình một cách thậm tệ và công khai không cần úp mở!
Cha Tỏ nói cha Trình ra đi đã vơ vét hết của cải trong họ và cả bàn ghế trong
nhà xứ! Giọng cha Tỏ rất bực tức, càng bực tứ thì càng “khẹt khẹt... khẹt khẹt”
nhiều hơn. Đó là một bài giảng rất hùng hồn của cha Tỏ để cổ vũ cho sự... lỗi
đức bác ái!
Mấy ngày sau tôi thấy xuất hiện những
chiếc ghế đai vô cùng quái dị được ghép bằng những tấm ván sù sì của các thùng
đựng sữa, đóng đinh vào rồi đưa ra ngồi! Những chiếc ghế “dã chiến” này được
thay thế hết những chiếc ghế đẹp trong nhà cha sở và hàng ghế giữa trong nhà
thờ dành cho Ban Quới Chức. Có nhiều người khách khi tới thăm cha Tỏ ra về bị
rách quần vì những cây đinh lởm chởm còn sót lại trên mặt “ghế” trong nhà cha.
Lúc đó, tôi chưa biết được các việc của Linh mục với nhau nhưng cách cha Tỏ
hành động có ý hạ bệ cha Trình đó tôi thấy nó tác hại cho chính cha Tỏ trước
tiên, kế đó nó tác hại cho tôi và tôi nghĩ là cho rất nhiều người.
Kế đến là việc có liên quan trực tiếp tới
tôi trong lần cha Tỏ xuống thăm học sinh của trường trung học Minh Đức chúng
tôi mấy ngày sau khi về làm cha sở. Vì biết trước cha Tỏ rất hận cha Trình, mà
trường trung học này là công sức của cha Trình gầy dựng nên thầy Quý đã cẩn
thận căn dặn chúng tôi phải tỏ ra lễ phép và kính trọng cha Tỏ đúng mức để cha
còn thương và lo cho trường học. Thầy cũng nói cho những học sinh nào chưa biết
cha Tỏ là ngài có tật khẹt khẹt vì có thịt dư trong mũi, đừng có lấy làm lạ vì
chuyện đó và nhất là đừng có cười!
Quãng 3 giờ chiều, học sinh cả hai lớp đệ
thất và đệ lục chừng hơn một trăm, chen chúc đầy trong phòng học lớn và nôn nao
đợi thầy Quý và thầy Công hướng dẫn cha sở mới vào. (Lúc này thày Công xuống dạy
thay cho thầy Huấn đã về lại Sài Gòn) Nhìn ra, tôi thấy cha Tỏ mặc áo khẩu đen,
quần lãnh, chân mang dép, có hai thầy đi bên cạnh trong cung cách khép nép và
cố gắng bày tỏ sự kính nể cha sở mới.
Khi cha Tỏ bước vào lớp, chúng tôi vỗ tay chào mừng.
Thầy Quý mời cha hiệu tưởng bước lên bục,
hai thầy đứng bên dưới. Thầy Quý thay mặt học sinh toàn trường chào mừng cha
hiệu trưởng mới và xin cha thương, lo lắng cho học sinh. Thầy Quý nói ngắn gọn
và thành khẩn. Khi cha Tỏ vừa đáp lời thì tai nạn xảy ra! Khi ngài vừa nói được
mấy lời thì ”khẹt khẹt... khẹt khẹt...!” Trong khung cảnh trang nghiêm đó bọn
học sinh chúng tôi không đứa nào nhịn cười được! Tôi đưa tay lên bụm miệng cố
gắng nín cười, ngó qua thấy nhiều đứa cũng làm như tôi, có đứa còn dùng răng
cắn môi dưới thật chặt trong khi đôi vai đang run mạnh vì sự dồn nén của cơn
buồn cười.
Lúc đó thầy Quý tái mặt đi và nhìn chúng
tôi trừng trừng mặc dù môi thầy cũng đang chúm chím cười nhưng cố nén xuống. Từ
thầy tới trò ai cũng biết lúc bấy giờ cười là tự sát nên bằng mọi giá phải...
nuốt xuống.
Nhưng khổ nỗi, con vi trùng cười rất thích
tấn công vào khung cảnh trang nghiêm. Hình như lúc đó con vi trùng cười đã xâm
nhập và làm chủ toàn bộ hệ thống thần kinh của hơn trăm học sinh và 2 thầy giáo
của chúng rồi, nên sau đợt “khẹt khẹt... khẹt khẹt” thứ hai, cả đám chúng tôi
vụt phá lên cười ầm ĩ. Cả thấy Quý là người
đã căn dặn chúng tôi đừng cười, bây giờ cũng cười, thầy Công cũng cười mà có vẻ
còn cười dữ dội hơn bọn học sinh chúng tôi. Cha Tỏ phẫn nộ quát: “Thôi! Đủ
rồi!” và bước xuống bệ ra khỏi lớp đi thẳng trở lên nhà xứ!
Cha Tỏ vừa ra tới sân, trong này chúng tôi
tự nhiên im bặt. Thầy trò tái mặt đứng chết trân nhìn nhau một giây rồi lại...
phá lên cười! Lần này thì trận cười càng dữ dội hơn, thoải mái hơn to tiếng hơn
và hình như ai cũng nghĩ là đàng nào thì tai nạn cũng đã xảy ra nên cười một
trận cho nó đã để tống ra hết những con vi trùng cười tự nãy giờ đang gậm nhấm
tâm can và làm chúng tôi tức ruột không chịu được. Thầy Quý mặt mày méo xệch,
đưa tay gở kiếng ra lau nước mắt vì cười, thầy Công cũng làm vậy và trong bọn
học sinh chúng tôi cũng nhiều đứa đưa tay quệt nước mắt vì hậu quả của trận cười
muốn vỡ cả bụng vừa rồi.
Phải mất chừng 15 phút sau, trong lớp mới
chấm dứt tiếng cười cuối cùng. Thật là một tai nạn khủng khiếp vừa xảy ra nhưng
thầy Quý không trách chúng tôi được vì chính thầy cũng cười. Sau khi được trận
cười no nê, thầy Quý kêu chúng tôi ngồi yên để nhận định tình thế và tìm phương
cứu chữa. Tôi thấy thương cho thầy Quý lúc bấy giờ bị lâm vào tình trạng quá
khó khăn khi thầy chọn ra 5 em trong đám học sinh để cùng với thầy làm thành
một “phái đoàn” lên xin lỗi cha sở! Tôi cũng được thầy chọn vào thành phần phái
đoàn, có lẽ vì tôi cười hăng nhất.
Khi phái đoàn sứ giả ra đi, tự nhiên tôi
liên tưởng tới phái bộ ...Phan Thanh Giản được vua Tự Đức cử đi qua Pháp xin
chuộc lại 6 tỉnh miền Tây hay miền Đông Nam Phần gì đó trong bài học lịch sử mà
lúc đó tôi còn nhớ lõm bõm chỗ đặng chỗ mất.
Không hiểu tại sao lúc đó tôi lại nghĩ sứ mệnh của phái bộ Phan Thanh
Giản lại dễ dàng hơn công việc của phái bộ... Bùi Sinh Quý!
Khi “phái bộ” chúng tôi lên gần tới nhà
xứ, trống ngực tôi đánh liên hồi, vì ngoài nhiệm vụ khó khăn trước mắt, tôi còn
rất hồi hộp khi sắp được bước vào một ngôi nhà mà suốt thời cha Trình còn ở đây
tôi chưa được bước chân vào bao giờ mặc dù chính tay tôi, cùng với các học
trò, đã ôm không biết bao nhiêu gạch đá
để xây ngôi nhà đó. Ngôi nhà cha sở được xây trên một nền bằng đá xanh khá cao
và chúng tôi bước lần theo các bậc tam cấp lên tiền đường.
Sau khi hàng ngũ chỉnh tề, thầy Quý cầm
cái chuông nhỏ lắc ba tiếng rồi bỏ chuông xuống đứng chờ. Lúc bấy giờ con muỗi
bay ngang cũng nghe được và trong lòng tôi nghĩ lần này thì cha Tỏ “khẹt khẹt”
như lúc nãy hoặc hơn thế nữa chúng tôi cũng không cười, hay đúng hơn là không còn
có sức để cười nữa. Một lúc sau cha Tỏ từ trong nhà bước ra trên mặt vẫn còn
phảng phất cơn tức bực. Thầy Quý nói lời xin lỗi, cha nói: “Được rồi, chúng con
về đi, cha đang mệt muốn nghỉ một chút. Khẹt khẹt!”. Thế là phái đoàn chúng tôi
ra về tay không .
(CÒN TIẾP)
XIN TẢI TẬP TIN TỪ LINK DƯỚI ĐÂY ĐỂ ĐỌC TIẾP:
- WORDS FILE:
TÔI PHẢI SỐNG Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
http://www.mediafire.com/download/3pbh7pqwl9i6d6e/T%C3%94I+PH%E1%BA%A2I+S%E1%BB%90NG+2.doc
- PDF FILE:
TÔI PHẢI SỐNG Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
http://www.mediafire.com/download/z0ohhb25pozaxd0/T%C3%B4i+ph%E1%BA%A3i+s%E1%BB%91ng.pdf
XIN TẢI TẬP TIN TỪ LINK DƯỚI ĐÂY ĐỂ ĐỌC TIẾP:
- WORDS FILE:
TÔI PHẢI SỐNG Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
http://www.mediafire.com/download/3pbh7pqwl9i6d6e/T%C3%94I+PH%E1%BA%A2I+S%E1%BB%90NG+2.doc
- PDF FILE:
TÔI PHẢI SỐNG Bút Ký của Lm. Nguyễn Hữu Lễ
http://www.mediafire.com/download/z0ohhb25pozaxd0/T%C3%B4i+ph%E1%BA%A3i+s%E1%BB%91ng.pdf
NGUỒN: EMAIL peter nguyen peternguyenhoang@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét